Bệnh Carré là một bệnh truyền nhiễm rất nguy hiểm, có hệ thống, rất phổ biến ở hầu hết trên toàn thế giới. Dựa trên dấu hiệu lâm sàng, bệnh Carré được xác định bởi:
Bài gốc: https://monspet.com/benh-carre-o-cho/ Dịch tễ học (tiếng anh là epidemiology, giải thích: https://vi.wikipedia.org/) của nó rất phức tạp bởi số lượng lớn các loài dễ bị nhiễm bệnh. Bệnh được phát hiện ở Canidae – họ chó (chó, cáo, sói, lửng chó), Mustelidae – họ chồn (chồn sương, chồn nâu, chồn hôi, chồn sói, chồn marten, lửng, rái cá), hầu hết Procyonidae – họ gấu mèo (gấu mèo), một số Viverida – họ cầy (cầy mực, cầy vòi hương) , Ailuridae (gấu trúc đỏ), Ursidae (gấu), Elephantidae (voi châu Á), linh trưởng (khỉ Nhật Bản) và Felidae – họ mèo lớn. Chó nhà (bao gồm cả quần thể hoang dã) được coi là loài động vật ủ bệnh ở hầu hết các nơi. Sự lệch và đa dạng chủng kháng nguyên ngày càng được ghi nhận liên quan đến sự bùng phát ở các loài hoang dã, chó nhà và động vật quý hiếm được nuôi trong vườn thú và công viên. Căn nguyên và sự phát sinh bệnh Carré ở chó:Virus bệnh Carré - Canine distemper virus, hay CDV, là một loại paramyxovirus có liên quan chặt chẽ với virus sởi và dịch tả châu bò. Virus RNA sợi đơn nhạy cảm với các dung môi lipid, như ether và hầu hết các chất khử trùng, bao gồm phenol và các hợp chất amoni bậc bốn. Nó tương đối không ổn định bên ngoài vật chủ. Con đường lây nhiễm chính là qua dịch tiết aerosol từ động vật bị nhiễm bệnh. Một số con chó bị nhiễm bệnh có thể thải ra virus trong vài tháng. [caption id="attachment_534" align="alignnone" width="662"] Virus Bệnh Carré[/caption] Virus ban đầu nhân lên trong mô bạch huyết của đường hô hấp. Nhiễm virus huyết liên quan đến tế bào dẫn đến nhiễm trùng tất cả các mô bạch huyết, sau đó là nhiễm trùng đường hô hấp, tăng đường huyết và biểu mô niệu sinh dục, cũng như hệ thần kinh trung ương và thần kinh thị giác. Bệnh theo sau sự nhân lên của virus trong các mô này. Mức độ nhiễm virus huyết và mức độ lan truyền của virus đến các mô khác nhau được tiết chế bởi mức độ miễn dịch dịch thể đặc hiệu ở vật chủ trong thời kỳ nhiễm virus huyết. Dấu hiệu lâm sàng:Sốt tạm thời thường xảy ra 3 đến 6 ngày sau khi bị nhiễm trùng và có thể có giảm bạch cầu tại thời điểm này; những dấu hiệu này có thể không được chú ý hoặc kèm theo chán ăn. Sốt sẽ giảm dần trong vài ngày nhưng sau đó sẽ bị sốt lại tiếp lần thứ hai, có thể đi kèm với chảy nước mũi, mắt chảy mủ, lờ đờ và chán ăn. Chỉ số đường huyết và dấu hiệu hô hấp, thường phức tạp do nhiễm vi khuẩn thứ cấp, sau đó sẽ là viêm da mủ nhưng triệu chứng này ít xảy ra. Viêm não có thể xảy ra liên quan đến các dấu hiệu này, nên theo dõi bệnh toàn thân (systemic disease), tuy nhiên cũng có trường hợp lại không có biểu hiện toàn thân nào cả. Những con chó sống sót trong giai đoạn cấp tính có thể bị tăng sừng biểu bì ở bàn chân và viêm mũi, cũng như chứng giảm sản men răng ở răng mới mọc. [caption id="attachment_530" align="alignnone" width="740"] Dấu hiệu lâm sàng bẹnh Carré ở Chó[/caption] Nhìn chung, một quá trình bệnh dài hơn có liên quan đến sự hiện diện của các dấu hiệu thần kinh; tuy nhiên, không có cách nào để dự đoán liệu một con chó bị nhiễm bệnh sẽ phát triển các biểu hiện thần kinh. Dấu hiệu thần kinh thông thường bao gồm:Co giật cơ cục bộ không tự chủ (giật rung cơ, chorea – rối loạn cử động không kiểm soát được, co thắt cơ, chứng tăng động) Chứng co giật, bao gồm cả chảy nước dãi nhiều và cử động nhai của hàm (chewing-gum fits – nhai để thỏa cơn bực) Các dấu hiệu thần kinh khác bao gồm:
Co giật cục bộ không tự chủ của một cơ hoặc một nhóm cơ (giật rung cơ, chorea – rối loạn cử động không kiểm soát được, co thắt cơ, chứng tăng động) và co giật đặc trưng bởi chảy nước dãi nhiều và thường là cử động nhai của hàm (chewing-gum fits – nhai để thỏa cơn bực) được coi là dấu hiệu thần kinh thông thường. Các chủng virus mới nổi có thể liên quan đến chứng loạn thần kinh lớn hơn; tăng tỷ lệ mắc bệnh và tử vong do các biến chứng thần kinh đã được quan sát trước đó. Một con chó có thể biểu hiện bất kỳ hoặc tất cả các dấu hiệu đa toàn thân trong quá trình nhiễm bệnh. Nhiễm trùng có thể nhẹ và không có biểu hiện gì hoặc dẫn đến bệnh nặng với hầu hết các dấu hiệu được mô tả. Quá trình của bệnh toàn thân có thể chỉ là 10 ngày, nhưng sự xuất hiện của các dấu hiệu thần kinh có thể bị trì hoãn trong vài tuần hoặc vài tháng do hậu quả của sự mất Myelin (một chất béo trắng bao phủ một số dây thần kinh) tiến triển mạn tính trong CNS. Các phát hiện lâm sàng và bao gồm giảm bạch cầu là không cụ thể, với khả năng tìm thấy các cơ quan chứa virus trong bạch cầu lưu thông rất sớm trong quá trình bệnh. X quang lồng ngực có thể tìm ra mẫu mô kẽ điển hình do virus viêm phổi gây ra. Viêm não mãn tính (viêm não ở những chú chó lớn tuổi, [ODE], một tình trạng thường được thể hiện bằng chứng mất điều hòa, các cử động bắt buộc như nhấn đầu - head pressing (là một tình trạng đặc trưng bởi hành động bắt buộc ấn đầu vào tường hoặc vật khác mà không có lý do rõ ràng) hoặc đi loạng choạng, và incoordinated hypermetria (rối loạn chức năng tiểu não nơi chuyển động của chân vượt quá mục tiêu dự định), có thể được nhìn thấy ở những con chó trưởng thành được tiêm phòng đầy đủ mà không có tiền sử mắc bệnh Carré toàn thân. Mặc dù kháng nguyên bệnh Carré đã được phát hiện trong não của một số con chó bị ODE bằng phương pháp nhuộm kháng thể huỳnh quang hoặc phương pháp di truyền, những con chó không lây nhiễm ODE và virus không có khả năng sao chép bị phân lập. Bệnh gây ra bởi một phản ứng viêm liên quan đến nhiễm virus Carré dai dẳng trong CNS, nhưng các cơ chế gây ra hội chứng này vẫn chưa được biết. Tổn thương từ căn bệnh CarréTeo tuyến ức là một phát hiện tử thi phù hợp ở chó con bị nhiễm bệnh. Tăng lớp sừng của mũi và bàn chân thường được tìm thấy ở những con chó có biểu hiện thần kinh. Tùy thuộc vào mức độ nhiễm vi khuẩn thứ cấp, viêm phế quản phổi, viêm ruột và mụn mủ da cũng có thể có mặt. Trong trường hợp tử vong cấp tính đến nguy hiểm, có thể tìm thấy bất thường hô hấp. Về mặt mô học, virus bệnh Carré tạo ra hoại tử các mô bạch huyết, viêm phổi kẽ, và các cơ quan bao gồm tế bào chất và nội bào trong biểu mô đường hô hấp, tiết niệu và chỉ số đường huyết. [caption id="attachment_532" align="alignnone" width="677"] Tổn thương gây ra bởi virus Carré[/caption] Các tổn thương được tìm thấy trong não của những con chó bị biến chứng thần kinh bao gồm:
Chuẩn đoán bệnh Carré ở ChóBệnh Carré nên được xem xét trong bất kỳ chẩn đoán nào về tình trạng sốt ở chó với các biểu hiện bệnh toàn thân. Các dấu hiệu đặc biệt đôi khi không bộc phát ra ngoài cho đến khi bệnh đã tiến triển quá lâu và hình ảnh lâm sàng có thể bị biến đổi bởi ký sinh trùng tại thời điểm đó và nhiều bệnh nhiễm trùng do virus hoặc vi khuẩn. [caption id="attachment_529" align="alignnone" width="670"] Chuẩn đoán loại bệnh này[/caption] Bệnh này có thể bị nhầm lẫn với các bệnh nhiễm trùng toàn thân khác:
Ở những con chó có dấu hiệu đa toàn thân, những điều sau đây có thể được kiểm tra bằng xét nghiệm miễn dịch huỳnh quang hoặc phiên mã ngược (tiếng anh viết tắt là RT-PCR: http://biomedia.vn/review/rt-qpcr-cac-nguyen-ly-co-ban.html):
RT-PCR định lượng có sẵn trên thị trường thường có thể phân biệt nhiễm trùng tự nhiên với virus Vaccinal. Một kết hợp RT-PCR hai bước để phân biệt các chủng Vaccinal với các chủng dại mới nổi cũng đã được mô tả; xét nghiệm này sẽ có giá trị đặc biệt trong các nghiên cứu dịch tễ học hoặc trong các sự bùng phát ở các loài không phải là chó. Hàm lượng kháng thể hoặc ELISA có thể được thực hiện trên CSF và so sánh với máu ngoại vi (peripheral blood); một mức độ tương đối cao hơn trong CSF là điển hình của nhiễm trùng tự nhiên so với tiêm chủng. Xét nghiệm miễn dịch huỳnh quang kháng nguyên virus (IFA) hoặc huỳnh quang trong lai tạo tại chỗ cho virus DNA có thể được thực hiện trên sinh thiết từ bàn chân hoặc từ vùng da có lông ở cổ lưng. Khi xét nghiệm tử thi, chẩn đoán thường được xác nhận bằng các tổn thương mô học, IFA hoặc cả hai. Các mẫu này thường âm tính khi chó chỉ hiển thị các biểu hiện thần kinh hoặc khi có kháng thể lưu hành (hoặc cả hai), yêu cầu chẩn đoán phải được thực hiện bằng đánh giá CSF hoặc RT-PCR như mô tả ở trên. Điều trị bệnh Carré:Phương pháp điều trị là triệu chứng và hỗ trợ, nhằm hạn chế sự xâm nhập của vi khuẩn thứ cấp, hỗ trợ cân bằng chất dịch và kiểm soát các biểu hiện thần kinh. [caption id="attachment_531" align="alignnone" width="672"] Quá trình điều trị[/caption] Điều trị bao gồm:
Không có điều trị cụ thể hoặc thống nhất thành công. Việc thử nghiệm trong ống nghiệm với các tác nhân chống virus cho thấy nhiều hứa hẹn, nhưng các tác nhân này vẫn chưa được sử dụng rộng rãi. Thật không may, điều trị cho các biểu hiện thần kinh cấp tính của bệnh thường không thành công. Nếu các dấu hiệu thần kinh tiến triển hoặc trở nên nghiêm trọng, chủ nuôi nên được tư vấn một cách thích hợp. Với sự chăm sóc kịp thời, tích cực, chó có thể hồi phục hoàn toàn sau các biểu hiện đa toàn thân, nhưng trong các trường hợp khác, các dấu hiệu thần kinh có thể tồn tại sau khi chỉ số đường huyết và các dấu hiệu hô hấp đã được giải quyết. Một số con chó mắc các dạng bệnh thần kinh tiến triển mạn tính hoặc do vắc-xin gây ra có thể đáp ứng với liệu pháp ức chế miễn dịch với liều glucocorticoids chống viêm hoặc lớn hơn. Xem thêm glucocorticoids là gì?: https://vi.wikipedia.org/wiki/Glucocorticoid Ngăn ngừa bệnh Carré:Với khả năng tăng tính độc hại của các chủng mới nổi và hàng loạt virus gây bệnh Carré trên chó, việc tiêm phòng rộng rãi cho chó nhà là rất cần thiết. Ngăn ngừa truyền nhiễm thành công cho chó con bằng vắc-xin virus biến đổi sống - modified-live virus (MLV) bệnh Carré phụ thuộc vào sự thiếu can thiệp của kháng thể mẹ. Để vượt qua rào cản này, chó con được tiêm vắc-xin MLV khi 6 tuần tuổi và trong khoảng thời gian 3 đến 4 tuần cho đến khi 16 tuần tuổi. Ngoài ra, vắc-xin virus sởi gây ra khả năng miễn dịch đối với virus gây bệnh Carré ở chó với sự hiện diện của kháng thể bệnh từ chó mẹ tương đối lớn hơn. Vắc-xin sởi MLV được tiêm IM cho chó con từ 6 - 7 tuần tuổi và được theo dõi với ít nhất hai liều vắc-xin bệnh MLV khi 12 - 16 tuần tuổi. [caption id="attachment_533" align="alignnone" width="623"] Vaccine cho loại bệnh này[/caption] Nhiều loại vắc-xin làm suy yếu bệnh hiện đang có sẵn và nên được sử dụng theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Vắc-xin MLV không nên được sử dụng cho chó cái ở giai đoạn cuối thai kì và đầu giai đoạn cho con bú. Vắc-xin MLV có thể tạo ra bệnh sau sinh ở một số con chó bị ức chế miễn dịch. Một loại vắc-xin vector Canarypox tái tổ hợp thể hiện proteins (chất đạm) bên trong vỏ virus gây bệnh được cấp phép sử dụng trong chồn sương; Hiệp hội Bác sĩ Thú y Hoa Kỳ khuyến nghị sử dụng thêm loại vắc-xin này trong nhiều loài có nguy cơ đang được nuôi nhốt trong vườn thú và công viên. Trong lịch sử, việc tái tiêm chủng hàng năm là yếu tố tiêu chuẩn căn bản trong việc phòng ngừa bệnh vì vắc-xin có thể bị kém hiệu quả đi khi chó bị căng thẳng, bị bệnh hoặc bị ức chế miễn dịch và vì vắc-xin đã được ghi chú để là sử sụng hàng năm (tức là chỉ có hiệu quả trong 1 năm). Bằng chứng đáng kể ủng hộ việc phát hiện ra rằng khả năng miễn dịch do vắc-xin bệnh MLV kéo dài ≥ 3 năm. Tuy nhiên, trong hầu hết các trường hợp, đây vẫn là việc sử dụng thêm vắc-xin; do đó, các quyết định tái tiêm chủng ít thường xuyên hơn hàng năm nên được xem xét dựa trên tỷ lệ phát bệnh tại địa phương và các yếu tố nguy cơ tiềm ẩn khác, cũng như các khuyến nghị của tổ chức chuyên nghiệp và công nghiệp. **vắc-xin vector: Vắc-xin vector là các chế phẩm dạng lỏng hoặc đông khô của một hoặc nhiều loại vi sinh vật sống (vi khuẩn hoặc virus) không gây bệnh hoặc có khả năng gây bệnh thấp cho các đối tượng và đã được đưa vào một hoặc nhiều gen mã hóa kháng nguyên để kích thích phản ứng miễn dịch bảo vệ chống lại các vi sinh vật khác. Nguồn: Mon’s Pet .Com Bài viết này trích dịch từ: https://www.msdvetmanual.com/ Xem thêm: Khuyến mãi và tin tức hay ho tại Facebook: https://www.facebook.com/monspet/ Giới thiệu về Mon’s Pet: https://about.me/monspet/ Coi nguyên bài viết ở : Via https://monspet.com/benh-carre-o-cho/
0 Comments
Hiện nay, các bé chó là người bạn đồng hành không thể thiếu của nhiều gia đình người Việt. Tuy nhiên sống trong môi trường tập thể, tiếp xúc giữa người với người, giữa các bé cún với nhau vô tình tạo điều kiện nhiễm bệnh cho cả chó và người chủ. Chính vì vậy qua bài viết này Mon’s Pet sẽ trích dịch 1 bài viết về những biện pháp phòng ngừa bảo vệ chó và người chủ khỏi những bệnh lây nhiễm từ môi trường sống được cung cấp bởi tổ chức AVMA (Hiệp hội thú y phi lợi nhuận, có trụ sở tại Schaumburg – Chicago – Mỹ). Bài gốc: https://monspet.com/bao-ve-cho-va-chu-nuoi-khoi-bi-nhiem-benh-tu-moi-truong/ Hãy xem tiếp bài viết để có thêm nhiều thông tin về vấn đề này nhé ! 18 biện pháp thông thường để bảo vệ các bé chó của bạn, bạn và những người xung quanh trong môi trường hiện nay.[caption id="attachment_521" align="alignnone" width="645"] 18 biện pháp bảo vệ chó[/caption]
Cho phép chó của bạn tương tác với những con chó khác có thể giúp chúng tập thể dục và tương tác với xã hội, điều này giúp tăng sức khỏe tinh thần và thể chất cho chó của bạn. Tuy nhiên, những tình huống này cũng liên quan đến một số rủi ro cho chó và chủ của chúng. Vì vậy điều quan trọng nhất vẫn là ý thức chung vì cộng đồng và cá nhân của chủ nuôi, bạn có thể giảm thiểu rủi ro trong khi vẫn cung cấp sức khỏe về thể chất và tinh thần cho chó của bạn. Một lưu ý về xã hội hóa của loài chó và nguy cơ mắc bệnh[caption id="attachment_522" align="alignnone" width="620"] Xã hội hóa loài chó và nguy cơ mắc bệnh[/caption] Việc xã hội hóa hay nói đơn giản là giúp cho các chú chó có thể dễ dàng tiếp cận và vui chơi nhiều hơn trong xã hội hiện nay thường được diễn ra từ 3-14 tuần tuổi, điều này rất quan trọng cho sự phát triển hành vi của chó con. Trong thời gian này, những trải nghiệm tích cực với những con chó khác, con người, tiếng ồn và các hoạt động có thể làm giảm khả năng các hành vi đáng sợ ảnh hưởng tới chó con, chẳng hạn như sự hung dữ và sợ hãi sau này trong cuộc sống của con chó. Những con chó con không được xã hội hóa đúng cách có nhiều khả năng phát triển các vấn đề về hành vi có thể khiến chúng trở thành thú cưng không phù hợp và làm tăng cơ hội chủ nhân của chúng sẽ đưa chúng vào các trung tâm cứu hộ, lưu trú. Thời kỳ xã hội hóa của chó con đan xen với giai đoạn dễ bị lây nhiễm với bệnh tật, bao gồm nhiễm parvovirus và virus Carré gây bệnh ở chó. Chó con cần xã hội hóa với những con chó khác, nhưng những con chó đó phải được tiêm phòng tốt và khỏe mạnh. Để bảo vệ hoàn toàn chó con của bạn khỏi virus parvovirus, liều cuối cùng của vắc-xin parvovirus phải ở 14-16 tuần tuổi, bất kể số lượng liều được đưa ra ở độ tuổi sớm hơn. Cho đến khi chó con của bạn được bảo vệ hoàn toàn, tránh đưa chúng đến công viên hoặc các khu vực có nhiều con chó khác, vì chúng có thể tiếp xúc với những con chó chưa được tiêm phòng đầy đủ. Cho cún con tham dự các khóa học hay giao lưu tiếp xúc với nhiều cún con khác sẽ giúp cải thiện việc xã hội hóa, kỹ năng của chúng nhưng điều này cũng dẫn đến nguy cơ lây nhiễm bệnh. Để giảm nguy cơ, chó con trong các lớp học phải ở độ tuổi nhất định và được tiêm chủng đầy đủ, có giấy khám sức khỏe của bác sĩ thú y trước khi bắt đầu các lớp học. Vệ sinh đúng cách trong các lớp học để không lây nhiễm. Vắc-xin đầu tiên của chó con nên được tiêm ít nhất 7 ngày trước khi đến lớp hoặc tiếp xúc với các con chó khác ngày đầu tiên. Chó con có dấu hiệu bị bệnh (tiêu chảy, ho, sốt, v.v.) không nên tham gia các lớp xã hội hóa dành cho chó con cho đến khi chúng khỏi bệnh. Nếu bạn cho phép chó con của bạn tương tác, tiếp xúc với những con chó trong gia đình hoặc bạn bè, hãy đảm bảo rằng những con chó đó đã được tiêm phòng thích hợp và được xã hội hóa đầy đủ để tránh những trải nghiệm xấu có thể gây hậu quả lâu dài đối với hành vi của chó con. Tương tự như vậy, nếu bạn đang nuôi một em chó già và dự định nuôi thêm một bé chó con, hãy chắc chắn rằng em chó già đã được tiêm phòng đầy đủ. Điều quan trọng phải lưu ý là phải đến 7-10 ngày sau lần tiêm chủng cuối cùng vào lúc 14-16 tuần tuổi, nguy cơ nhiễm trùng là rất thấp và bạn có thể thoải mái hơn trong việc cho các bé cún con tiếp xúc nhiều hơn với các con chó khác. Nguồn: Mon’s Pet .Com Bài viết này được trích dịch từ: https://www.avma.org/ Xem thêm nhiều tin tức pet khác: https://www.facebook.com/monspet/ https://monspet-com.tumblr.com/ Đọc nguyên bài viết tại : Via https://monspet.com/bao-ve-cho-va-chu-nuoi-khoi-bi-nhiem-benh-tu-moi-truong/ Tất tần tật về đồ chơi cho mèo, và gợi ý top 10 sản phẩm không thể thiếu (có tư vấn link mua) Những năm trở lại đây, việc nuôi mèo không còn quá xa lạ với các bạn trẻ. Mèo không chỉ là thú cưng mà còn được xem là một thành viên trong gia đình. Được đặt biệt danh là “quàng thượng”, không khó để thấy được mèo rất được các “sen” dành tình cảm thương yêu mỗi ngày. Bài gốc: https://monspet.com/do-choi-cho-meo/ Từ thức ăn cho đến dụng cụ chăm sóc, những người yêu mèo thường trang bị rất kĩ lưỡng và xịn xò đáp ứng đầy đủ nhu cầu của chú mèo cưng của mình. Trên thực tế, mèo rất nhanh nhẹn, tò mò và hoạt bát, nhưng có thể vì sống ở môi trường được nuôi dưỡng và thuần hóa mà khiến mèo trở nên lười biến hơn và dễ dàng có dấu hiệu thừa cân. Chính vì vậy, bạn cần xem xét việc đầu tư cho mèo những món đồ chơi có thể kích thích sự tò mò, hiếu động của bé từ đó giữ được cân nặng khỏe mạnh. Đồ chơi cho mèo có cần thiết?Không chỉ đơn thuần là giải trí, mèo cần đồ chơi để vận động, tập thể dục, giữ gìn sức khỏe ổn định. Ngoài ra Đồ chơi cho mèo còn được xem là một trong nhiều vật dụng cần thiết giúp mèo cưng có thể giảm stress hiệu quả. [caption id="attachment_509" align="alignnone" width="659"] Đồ chơi cho mèo có cần thiết?[/caption] Ngoài tác động để thể chất, đồ chơi mèo còn giúp những bé mèo có trí nhớ tốt hơn, giúp bạn dễ dàng training chú mèo mình 1 vài trò (đập tay với mèo, bắt tay với mèo….) Cùng với đó chơi với mèo cũng góp phần xây dựng tình cảm yêu thương giữa chú mèo và chủ. Dưới đây là 1 số tác dụng của đồ chơi cho mèo: 1. Đồ chơi cho mèo giúp mèo vận độngVấn đề về cân nặng có thể dẫn đến một số vấn đề khác liên quan đến sức khỏe ở mèo như bệnh tiểu đường, bệnh thận, giảm tuổi thọ, huyết áp cao, cũng như bệnh viêm xương khớp. Việc chơi với đồ chơi khiến mèo vận động nhiều hơn, nhanh nhẹn hơn, giúp tăng khả năng phản xạ, cùng với đó là phòng ngừa những bệnh nguy hiểm trên. [caption id="attachment_510" align="alignnone" width="641"] Giúp mèo vận động, kiểm soát cân nặng[/caption] Hãy mua cho mèo những món đồ có thể di chuyển ở không gian rộng, chúng sẽ vô cùng thích thú và quấn quýt đồ chơi cả ngày mà không thấy mệt mỏi. 2. Đồ chơi cho mèo giúp tăng cường trí nhớMèo luôn tò mò với mọi thứ xung quanh, nếu liên tục cho chúng chơi đùa với đồ chơi, chúng sẽ luôn tỏ ra quan sát, theo dõi nguyên tắc hoạt động của đồ vật và lăn lộn với chúng, tự bản thân mèo sẽ phát hiện và ghi nhớ các hoạt động đó giúp trí não phát triển hơn, thông minh hơn. [caption id="attachment_511" align="alignnone" width="628"] Tăng cường trí nhớ cho mèo[/caption] 3. Đồ chơi giúp xây dựng tình cảm chủ và bé mèoKhi chơi với mèo bằng đồ chơi thường xuyên, cũng xây dựng, vun đắp rất nhiều niềm tin của chú mèo với chủ. Sau 1 thời gian chơi cùng, chú mèo của bạn sẽ tin tưởng bạn, quấn quýt bên bạn và yêu thương bạn nhiều hơn [caption id="attachment_512" align="alignnone" width="628"] Xây dựng tình cảm với chủ[/caption] Top 10 món đồ chơi cho mèo không thể thiếu (Tư vấn link)Bạn đang đau đầu vì việc lựa chọn đồ chơi dành cho mèo? Đừng lo, bài viết này được thiết kế dành riêng cho bạn. Một loại đồ chơi tốt cho mèo nhất định phải mô phỏng các kỹ năng mà mèo cần có khi sống trong môi trường tự nhiên. Cùng điểm qua 10 món đồ chơi cho mèo không thể thiếu mà bất cứ người chủ nuôi mèo nào cũng nên biết. 1. Trụ cào móng mèoNhững người mới nuôi mèo lần đầu tiên thường rất khó chịu nếu thấy các tấm thảm chân, ghế sofa da, quần áo, giày dép đều có dấu móng vuốt của mèo, thậm chí là bị cào rách xơ xác. Đúng vậy, nếu bạn chưa từng biết đến điều này, bản chất của mèo là thích cào mọi thứ và cào ở mọi nơi! Đó là một phần bản năng tự nhiên không thể thay đổi được của mèo. [caption id="attachment_498" align="alignnone" width="463"] Đồ chơi Trụ cào móng mèo[/caption] Hãy đầu tư một dụng cụ thích hợp để hướng cho chú mèo của bạn cào móng đúng chỗ. Chọn một dụng cụ cào móng với bề mặt thô nhám để mèo của bạn có thể cào bằng tất cả những sự thích thú của bé mèo. Trụ cào móng được cấu tạo từ một thanh gỗ hoặc ống nước xung quanh được quấn bởi dây thừng nhỏ sẽ rất phù hợp với bộ móng vuốt của mèo. Vị trí đặt: Bạn nên để ý xem là mèo nhà bạn thường hay cào vuốt ở những nơi nào, chúng thích cào những đồ vật nào, hãy đặt trụ cào móng mèo cạnh bên những đồ vật ấy. Chúng sẽ dễ bị thu hút vào sự xuất hiện của những vật lạ và hạn chế cào vào những đồ vật trong nhà khác. Khi chúng đã quen với việc cào móng vào trụ, bạn có thể tự do đặt cào móng ở những vị trí khác thuận tiện hơn. Đừng vì tật hay cào của mèo mà bỏ qua ý định nuôi mèo, hãy trang bị cho chúng những trụ cào móng tiện lợi, bạn sẽ thấy rất hiệu quả. 2. Tháp bóng 3 tầngĐược làm từ chất liệu nhựa cao cấp, an toàn và đặc biệt không bị bay màu theo thời gian. Thiết kế độc đáo hình tháp vững chắc sẽ tránh được việc tháp bị đổ khi mèo cưng của bạn "quá khích". Đồ chơi cho mèo tự vận động với 3 tầng bóng vui nhộn, kích thích vận động ở mèo, tăng tư duy, nhanh nhẹn và thích hợp cho mèo mọi lứa tuổi. [caption id="attachment_499" align="alignnone" width="467"] Tháp bóng 3 tầng[/caption] Tháp có 3 tầng, mỗi tầng đều có một quả bóng nhỏ chạy xung quanh giúp mèo cưng của bạn có thể chơi 1 mình hoặc với những em mèo khác đều được. Tháp bóng có thể giúp mèo cưng luyện được khả năng tập trung cao, trở nên nhanh nhẹn và thông minh hơn. Kết cấu 3 tầng kèm theo 3 trái banh màu cho mèo tha hồ chơi và bắt bóng, các rãnh bóng được thiết kế tỷ mỉ, giúp bóng dễ dàng trượt trên ray và không bị văng ra ngoài khi các bé mèo đùa giỡn. Được sản xuất từ nhựa dẻo mềm pp, nên bạn có thể hoàn toàn yên tâm về độ an toàn của tháp bóng đối với sức khỏe mèo cưng. Với bộ đồ chơi cho mèo này bạn yên tâm không phải lo mèo nhà mình lười vận động hay bị stress khi không có ai chơi cùng. Lưu ý: Bởi tính mèo ưa tinh nghịch, nên bạn không nên cố định tháp bóng, hãy để bé mèo mặc sức chơi đùa và kéo lê tháp bóng quay khắp nhà nhé. 3. Cây mát-xa mặt mèo[caption id="attachment_500" align="alignnone" width="438"] Cây mát-xa mặt mèo[/caption] Cây mát – xa vốn sinh ra nhằm phục vụ nhu cầu làm đẹp, thư giãn của con người. Nhưng thật không ngờ là những chú mèo cũng tỏ ra rất thích thú với hoạt động này. Thanh lăn mặt mát-xa mặt mèo có tác dụng thúc đẩy lưu thông máu và thư giãn cơ mặt thông qua lực từ tay với các động tác lăn, phương pháp massage và kích thích các huyệt trên mặt. Ngoài tác dụng thư giãn cho mèo, cây lăn còn được xem là món đồ chơi khiến mèo vô cùng tò mò, thích thú. Hãy dành thời gian cho chăm sóc cho chú mèo đáng yêu của bạn bằng một buổi thư giãn tại gia với cây lăn mát-xa phê pha này nhé Lưu ý khi dùng cây mát xa cho mèo: Thời gian và độ mạnh là hai điều quan trọng bạn cần lưu ý khi sử dụng cây lăn mặt cho mèo. Khi dùng cây lăn mặt, bạn không nên lăn trên mặt và cơ thể mèo quá lâu hoặc ấn quá mạnh sẽ dễ dàng gây ra vết xước không đáng có 4. Đèn laser cho mèoTất cả các loài vật nuôi đều bị thu hút bởi tia sáng, đặc biệt là mèo. Vì vậy, một chiếc đèn laser sẽ đảm bảo trở thành trò chơi không bao giờ nhàm chán. Việc rọi đèn laser cho mèo đuổi theo sẽ khiến mèo phấn khích, nguyên nhân của việc này là do mèo có bản năng săn bắt mồi. Khi nhìn thấy cái đốm đỏ nhảy nhót thì nó sẽ liên tục đuổi bắt cho đến khi săn được con mồi. [caption id="attachment_501" align="alignnone" width="465"] Đèn laser cho mèo[/caption] Đồ chơi đèn laser led cho mèo màu đỏ rất bắt mắt, mèo dễ dàng bị thu hút và mèo của bạn chắc chắn sẽ có các màn nhào lộn, chơi đùa với những pha rượt đuổi rất ngộ nghĩnh. Đồng thời, với trò chơi này, bạn còn có thể luyện được phản xạ cho vật nuôi của mình một cách tốt nhất. Nếu có điều kiện, bạn có thể đầu tư cho mèo một chiếc máy phát ra tia laser, với khả năng tự động phóng ra các tia laser ngẫu nhiên xung quanh căn phòng. Mèo cưng của bạn sẽ đuổi theo tia sáng, tìm cách bắt được nó, từ đó có một buổi "tập thể dục" hoàn hảo mỗi ngày. Lưu ý khi sử dụng đèn laser chơi với mèo: Tuyệt đối không rọi đèn laser trực tiếp vào mặt và mắt bé mèo. Một tia laser chiếu trực tiếp vào mắt có thể gây tổn thương võng mạc mắt, đặc biệt nếu đó là một tia laser có cường độ mạnh. Các tổn thương do laser gây ra thường không gây đau đớn, có thể khó nhận biết trong vài ngày thậm chí vài tuần, nhưng có thể khiến thị lực của mèo suy giảm dần theo thời gian, vì vậy bạn đừng bao giờ làm vậy nhé. 5. Cần câu mèo hoặc gậy đồ chơi cho mèoCầu câu mèo là món đồ chơi phổ biến dành cho mèo, hình dáng con cá treo lủng lẳng trên cần câu sẽ kích thích bản năng săn mồi của mèo. Mèo sẽ bước vào những trạng thái: rình mồi, nhẹ nhàng tiếp cận và vồ vập vào con cá khiến mèo cảm thấy hứng thú mà không hề nhàm chán. Khi bắt được thành quả, chắc hẳn mèo sẽ rất mãn nguyện. [caption id="attachment_502" align="alignnone" width="491"] Cần câu cá cho mèo[/caption] Mèo rất thích những vật dụng di chuyển, bởi thế cần câu cá được tạo ra nhằm phục vụ cho nhu cầu này. Đồ chơi cần câu cho mèo còn khiến mèo kích thích trí não và giảm stress rất tốt. Thường thì mèo rất thích trò chơi này, chúng thường đuổi bắt và lấy tay cào vào. Thậm chí chúng có thể chơi đùa cùng cần câu cá 1 – 2 tiếng liền mà không thấy mệt mỏi. Có 1 số loại được gọi là gậy đồ chơi cho mèo cũng có tác dụng tương tự 6. Chuột điều khiểnMèo có bản năng giỏi bắt chuột, nhưng hiện nay do được sống trong điều kiện trong nhà, ít được tiếp xúc với chuột nên việc săn bắt này cũng thường thấy. [caption id="attachment_503" align="alignnone" width="537"] Chuột đồ chơi cho mèo[/caption] Tuy nhiên có 1 loại đồ chơi cho mèo là Chuột điều khiển rất phù hợp với những chú mèo nghịch ngợm, hiếu động. Mèo sẽ rất thích những vật nhỏ xinh, nhất là những vật chuyển động giúp mèo rất tò mò, hào hứng, từ đó giúp chú mèo của bạn trở nên linh hoạt hơn. Chuột điều khiển được gia công với chất liệu vải bên ngoài rất bền bỉ để tránh mèo cào rách. Chuột đồ chơi cho mèo này rất tốt trong việc giúp mèo giữ cân nặng khỏe mạnh. 7. Bóng len cho mèo[caption id="attachment_504" align="alignnone" width="545"] Bóng len[/caption] Những chú mèo béo ú, thừa cân sẽ rất thích thú và không ngừng đuổi theo món đồ chơi này cho xem. Đây là một món đồ chơi khá thú vị và có tính tương tác cao với thú cưng, nên dù bạn không có mặt ở nhà thì những chú mèo cũng không bao giờ thấy buồn chán cả Bóng len thừng cuộn tròn với nhiều màu sắc đa dạng về kích thước và hình dáng, được thiết kế từ dây thừng cotton cao cấp, dệt vải len mềm mại, bền bỉ đáp ứng được nhu cầu cào cấu và cắn xé của mèo. Đây là một sản phẩm tuyệt vời kích thích bản năng nhai – gặm của mèo. Nếu có thời gian, bạn cũng có thể chơi bóng len ném cùng với mèo cưng. Mỗi con mèo có tính cách, hành vi và đặc điểm riêng biệt. Một số con có kỹ năng chơi trò ném bóng len mà không cần phải dạy bảo cách lấy đồ chơi hay quả bóng quá nhiều. Bóng len là trò chơi kích thích thể chất lẫn tinh thần cho mèo và là cơ hội để lại những giây phút vui đùa thú vị cùng với người bạn của mình. Đây là loại đồ chơi cho mèo có thể chơi với chủ hoặc mèo tự chơi. 8. Cá nhồi bông Catnip[caption id="attachment_505" align="alignnone" width="560"] Cá nhồi catnip[/caption] Cá nhồi bông cho mèo – hay còn gọi là cá catnip - là đồ chơi cho mèo, có nhồi catnip (bạc hà khô) bên trong, giúp tạo cảm giác hưng phấn, giảm stress và thích thú khi mèo vui chơi. Phút giây thư giãn của mèo khi sử dụng Catnip trong 1 số trường hợp sẽ khiến mặt chúng trông sẽ ngộ nghĩnh hơn, trông rất đáng yêu. Cỏ bạc hà mèo là loại thảo dược tự nhiên, không độc hại và không gây nghiện cho mèo. An toàn cho mèo và người, sản phẩm được rất nhiều chủ nuôi mèo lựa chọn vì mèo rất thích chơi cùng những chú cá nhồi bông có cỏ bạc hà. Catnip mèo có tác dụng tương đương với những chất an thần nhẹ, mèo cưng sẽ đạt được hưng phấn thông qua khứu giác và vị giác. Ngoài ra, không chỉ làm những chú mèo trở nên thoãi mái và vui vẻ hơn Ngoài ra loại đồ chơi cho mèo có chứa bạc hà này còn giúp chúng có thể nôn ra những búi lông trong ruột, từ đó cải thiện khả năng tiêu hoá, tránh được những bệnh đường ruột thường thấy của mèo Xem thêm: Búi lông là gì?: https://monspet.com/bui-long-meo-hairball/ 9. Con gián giả[caption id="attachment_506" align="alignnone" width="450"] Gián giả[/caption] Đây cũng là một trong những món đồ chơi rất kích thích mèo. Bạn có thể lựa chọn kích cỡ gián giả khác nhau phù hợp với độ tuổi và cân nặng của mèo. Vì làm từ chất nhựa dẻo, nên hãy yên tâm là móng vuốt của mèo khó có thể làm rách gián nhé. 10. Cat tree[caption id="attachment_507" align="alignnone" width="477"] Cat tree[/caption] Nhà cây cho mèo hay còn gọi là Cat tree. Gọi là nhà cây, nhưng thực chất nó lại đóng vai trò là một phụ kiện đồ chơi cho mèo nhiều hơn. Nếu bạn đang có ý định nuôi một chú mèo, thì đây chính là món quà vô giá đối với mèo. Cat tree cũng là đồ dùng giúp mèo có thể vận động, leo trèo dễ dàng. Vốn dĩ những chú mèo rất thích leo trèo, bạn sẽ dễ dàng nhìn thấy mèo trèo lên nóc tủ, lên cành cây, lên cửa sổ… Chính vì điều này, Cat tree được thiết kế với rất nhiều mẫu, có nhiều tầng và hình dáng khác nhau. Đây là một loại đồ chơi giúp mèo giải tỏa căng thẳng rất tốt. Thêm điểm đặc biệt nữa, Cat tree được cấu tạo từ khung gỗ và nhiều trụ cào móng, nên mèo có thể vừa leo trèo vừa cào móng một cách dễ dàng. Lời kếtNuôi mèo không quá khó nhưng cũng không quá dễ, nhất là khi những chú mèo sống trong môi trường nhà ở thành thị, nơi có rất ít sự giải trí, vận động cho mèo. Chính vì vậy qua bài viết Top 10 món đồ chơi không thể thiếu dành cho mèo giúp giải quyết phần nào vấn đề stress mèo, mèo tăng cân, bị tự kỉ. Trang bị từ 2-3 món này cũng là điều cần thiết dành cho bất kì người yêu mèo nào. Ngoài tăng cường vận động, giảm bệnh tật, giảm stress, các món đồ chơi còn giúp mèo thông minh và nhanh nhẹn hơn, vì thế bạn hãy cân nhắc sắm ngay cho mèo nhà mình nhé. Nguồn: Mon’s Pet .Com Xem thêm: https://monspetblog.wordpress.com/ https://sites.google.com/view/monspet/ Coi bài nguyên văn tại : Via https://monspet.com/do-choi-cho-meo/ Viêm phúc mạc truyền nhiễm ở mèo (bệnh FIP) là một bệnh do virus không phổ biến, gây tử vong ở mèo do nhiễm coronavirus (FcoV - Feline coronavirus). Nhiễm trùng FCoV trên thực tế rất phổ biến ở mèo trên toàn thế giới và trong hầu hết các trường hợp, virus sẽ không gây ra dấu hiệu lâm sàng hoặc chỉ là bệnh thoáng qua nhẹ như tiêu chảy. Bài viết gốc: https://monspet.com/benh-fip/ Trong ít trường hợp, nhiễm trùng sẽ dẫn đến sự phát triển của biểu hiện gây tử vong cấp tiến được gọi là FIP - một trong những bệnh nhiễm virus nghiêm trọng nhất ở mèo không chỉ vì bản chất gây tử vong mà còn vì những khó khăn trong việc chẩn đoán xác chết và các vấn đề liên quan đến việc kiểm soát căn bệnh này. Nguyên nhân và nguồn gốc gây ra bệnh FIP?Feline Coronaviruses (FCoV) thuộc một nhóm Coronavirus liên quan chặt chẽ với nhau gây ra bệnh đường ruột và hô hấp ở chó và lợn, và cảm lạnh thông thường ở người. Không có bằng chứng cho thấy virus ở mèo được truyền tự nhiên đến bất kỳ loài nào khác. Một đặc điểm quan trọng của coronavirus là chúng dễ bị thay đổi gen (đột biến) và virus biến thể phát sinh ở động vật bị nhiễm bệnh có thể gây bệnh nhiều hơn hoặc khác biệt về mặt kháng nguyên so với virus ban đầu. [caption id="attachment_480" align="alignnone" width="652"] Feline Coronaviruses FCoV[/caption] Từ góc độ lâm sàng, người ta nhận ra rằng có hai dạng sinh học của FCoV. Một là dạng phổ biến, hay "ruột", dạng FCoV được truyền trong tự nhiên giữa các con mèo và đại diện cho đại đa số FCoV trong quần thể. Kiểu sinh học này không gây ra bệnh quá mức, hoặc chỉ có dấu hiệu tiêu hóa tạm thời, tự giới hạn. Virus lây lan chủ yếu qua đường phân - miệng, virus được thải ra trong phân của một con mèo bị nhiễm bệnh và sau đó được ăn bởi một con mèo khác. Virus chủ yếu sao chép bên trong các tế bào đường ruột và có thể gây tổn thương cục bộ dẫn đến tiêu chảy. Những con mèo bị nhiễm bệnh đã nhiễm virus trong một khoảng thời gian khác nhau, thường là một vài tháng và sau đó dừng lại. Những con mèo tạo ra kháng thể với virus, có thể được phát hiện trong máu và số lượng giảm dần khi sự đào thải của virus kết thúc. Sau khi một con mèo đã bị nhiễm trùng, nó có thể bị nhiễm lại từ một con mèo khác với cùng hoặc một chủng FCoV khác và bắt đầu đào thải virus trở lại. Một số ít con mèo có thể bị nhiễm trùng dai dẳng và trở thành nơi bài tiết lâu dài của virus. Kiểu sinh học thứ hai của FCoV là kiểu gây ra Bệnh FIP. Người ta tin rằng hầu hết các trường hợp lâm sàng của FIP phát sinh thông qua sự xuất hiện của chủng virus độc hại này do đột biến trong nhiễm trùng hiện tại với dạng sinh học “ruột” thông thường tương đối không gây hại. Một số lượng nhỏ hơn các trường hợp FIP liên quan đến virus phát sinh thông qua tái hợp giữa FcoV và coronavirus ở chó (CCV), điều này cho thấy rằng CCV đôi khi được truyền từ chó sang mèo. Dù nguồn gốc của chúng là gì, các FCoV của kiểu sinh học gây ra bệnh FIP dường như không được truyền đi trong tự nhiên và thường chết cùng với vật chủ của chúng. Tuy nhiên, sự bùng nổ của dịch FIP ở từng đàn mèo cho thấy rằng việc truyền trực tiếp một kiểu sinh học gây bệnh FIP đôi khi có thể xảy ra. Làm thế nào để các virus biến thể gây ra bệnh FIP hiện vẫn chưa được biết tới. Có ý kiến cho rằng sự khác biệt chính giữa các virus gây bệnh FIP và các chủng FCoV 'ruột' có liên quan là loại trước có thể xâm nhập cơ thể và không bị hạn chế ở đường ruột như loại sau, có thể vì chúng có thể dễ dàng hơn lây nhiễm và phát triển trong các đại thực bào. Tuy nhiên, rõ ràng là ở những con mèo bị nhiễm FCoV không phát triển FIP, virus cũng xâm nhập ở ngoài ruột và được tìm thấy trong máu của chúng. Bất kể những thay đổi rõ ràng xảy ra ở virus, sự phát triển của bệnh lâm sàng (FIP) cũng sẽ phụ thuộc vào phản ứng miễn dịch không hiệu quả khi mèo bị nhiễm bệnh không kiểm soát được sự sao chép của virus dẫn đến viêm ở hầu hết mọi vị trí trong cơ thể, do đó tạo ra một loạt các dấu hiệu lâm sàng. Do đó, kết quả của việc lây nhiễm ở một con mèo phụ thuộc vào kết quả của sự tương tác phức tạp giữa chủng và lượng virus, tuổi và khả năng miễn dịch của động vật. Các nguồn lây nhiễm FCoV hay gặp cho một con mèo bao gồm mèo mang mầm bệnh không thể hiện các triệu chứng, mèo bị viêm ruột do FCoV, các trường hợp lâm sàng của FIP và truyền nhiễm trong môi trường với virus. Nhiễm trùng FcoV và FIP phổ biến như thế nào?Nhiễm trùng với FCoV có mặt khắp nơi trong quần thể mèo nhà trên toàn thế giới. Các khảo sát đã chứng minh rằng thông thường 25 đến 40% mèo cưng trong gia đình có huyết thanh dương tính FCoV (nghĩa là có kháng thể chống lại FCoV trong máu cho thấy đã nhiễm virus hiện tại hoặc trước đó), trong khi con số này thường tăng lên 80 đến 100 % đối với mèo từ các trại nuôi lấy giống và các bày đàn lớn khác. Tuy nhiên, mặc dù mức độ nhiễm FCoV cao ở quần thể mèo, FIP vẫn là một bệnh tương đối hiếm gặp (xem bên dưới), với hầu hết các bệnh nhiễm trùng dường như là do các chủng virus gây bệnh viêm ruột có độc tính thấp. Do đó, nhiễm FCoV là đặc hữu ở quần thể mèo và rất phổ biến ở các nơi nuôi nhiều mèo như hộ gia đình nhiều mèo, cứu hộ và trại nhân giống mèo. Trong trường hợp virus là loài đặc hữu ở một nhóm mèo, một số con trưởng thành có thể là vật mang mầm bệnh và liên tục thải ra virus trong phân của chúng, trong khi những con khác có thể bị tái nhiễm theo thời gian và thải ra virus theo từng đợt. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng chỉ cần có sáu con mèo cùng sống chung một môi trường là đủ để duy trì nhiễm trùng FCoV dai dẳng. [caption id="attachment_481" align="alignnone" width="647"] Nhiễm FCoV là đặc hữu ở quần thể mèo[/caption] Mèo con được sinh ra trong môi trường chứa nhiều FCoV có thể sẽ có được sự bảo vệ ban đầu bằng khả năng miễn dịch có nguồn gốc từ mèo mẹ (kháng thể được hấp thụ từ sữa mẹ trong 24 giờ đầu bú sữa). Khả năng miễn dịch đặc biệt này sẽ suy yếu và không bị phát hiện ra ở 6 - 8 tuần tuổi và hầu hết mèo con bị nhiễm và thải ra FCoV trong phân của chúng từ 5 đến 11 tuần tuổi. Theo đó, mèo con sẽ tự sản xuất kháng thể. Mặc dù coronavirus khá yếu và dễ bị ảnh hưởng để sử dụng phương pháp khử trùng thường xuyên (để biết thông tin về chất khử trùng xem: www.fabcats.org), nhưng một số chủng vẫn có thể tồn tại trong môi trường trong vài tuần, cho thấy những con mèo con dễ mắc bệnh thường bị nhiễm trùng từ môi trường truyền nhiễm cũng như qua tiếp xúc với các con mèo khác. Viêm phúc mạc truyền nhiễm chủ yếu là một bệnh của mèo nhỏ xảy ra từ giai đoạn sau cai sữa trở đi. Độ tuổi cao nhất để phát triển bệnh là từ sáu tháng đến hai năm, mặc dù nó có thể xảy ra ở mèo ở mọi lứa tuổi. Có lẽ nguy cơ tạo ra đột biến FCoV có khả năng tạo ra FIP ở một con mèo bị nhiễm bệnh là lớn nhất khi số lượng virus nhân lên trong cơ thể rất cao. Sự nhân lên của virus có thể được tăng cường nhờ phản ứng miễn dịch kém hơn của mèo con, đặc biệt là khi điều này được kết hợp với các yếu tố căng thẳng như về nhà mới, triệt sản, tiêm phòng và bệnh gian phát (intercurrent disease). Có tỷ lệ mắc bệnh cao hơn ở mèo từ các trại nuôi giống và các hộ gia đình nuôi nhiều mèo khác, có lẽ phần lớn phản ánh thực tế rằng đây là những môi trường dễ tiếp xúc với FCoV. Thật vậy, tỷ lệ mèo trong chuồng thường xuyên thải ra FCoV trong phân của chúng và tần suất thải ra FCoV đã được chứng minh là có liên quan đến nguy cơ phát triển các trường hợp bệnh FIP. Tuy nhiên, các yếu tố khác cũng có thể liên quan như tính nhạy cảm di truyền đối với bệnh, một vài giống mèo hay phát bệnh FIP (ví dụ: Ba Tư và Miến Điện). Không có con số chính xác về tỷ lệ mắc bệnh FIP, nhưng có ý kiến cho rằng tỷ lệ tử vong chung do FIP ở mèo trưởng thành được nuôi với số lượng thấp (một hoặc hai cá thể mỗi hộ) là khoảng 1: 5000 (0,02%), ngược lại ở đàn mèo với bệnh lan rộng , nó thường lên tới 5% (với sự thay đổi rất lớn giữa các khu vực khác nhau). Thông thường, ngay cả trong các tình huống đặc thù, căn bệnh này bùng phát rời rạc trong đó tỷ lệ tử vong có thể đạt khoảng 10%. Đôi khi dịch bệnh nhỏ được nhìn thấy trong đó có tới 40% mèo nhỏ có nguy cơ cao có thể chết, nhưng đây là những trường hợp hiếm. Thông thường, FIP có thể phát triển ở một vài hoặc tất cả mèo con từ một lứa riêng lẻ trong một khoảng thời gian. Các dấu hiệu lâm sàng của nhiễm trùng FCoV và FIP là gì?Hầu hết mèo con bị nhiễm FCoV đều bị nhiễm các chủng gây viêm ruột nhưng không có triệu chứng, hoặc bị tiêu chảy nhẹ đến trung bình (và đôi khi nôn) trong thời gian vài ngày. Chỉ có một trường hợp viêm ruột do FCoV được báo cáo là gây tử vong (trong trường hợp không có FIP). Mặt khác, FIP là một bệnh có các biểu hiện lâm sàng cực kỳ đa dạng và các dấu hiệu lâm sàng có xu hướng tiến triển và cuối cùng gây tử vong. Thật không may, vì bản chất đa dạng của các dấu hiệu bệnh lâm sàng cho nên FIP phải được coi là nguyên nhân của nhiều hội chứng bệnh về mèo khác nhau. Nói chung, bệnh có 2 dạng - FIP “effusive - tràn dịch” (hoặc 'ướt' – “wet”) và FIP “non-effusive - không tràn dịch” (hoặc 'khô' – “dry”). Trong bệnh tràn dịch (effusive disease), virus gây viêm các mạch máu dẫn đến rò rỉ chất lỏng giàu protein từ máu vào khoang cơ thể (phổ biến nhất là bụng dưới dạng viêm phúc mạc). Trong các tổn thương viêm bệnh không tràn dịch (non-effusive disease) (u hạt - granulomas) phát triển xung quanh các mạch máu trong các cơ quan và các cấu trúc khác dẫn đến các dấu hiệu lâm sàng đa dạng hơn và thường mơ hồ hơn, tùy thuộc vào vị trí nào của cơ thể bị ảnh hưởng. Những nơi phổ biến nhất để tìm u hạt là các cơ quan bụng (gan, thận, ruột, hạch bạch huyết), mắt và hệ thống thần kinh trung ương (CNS). Bệnh tràn dịch phổ biến hơn bệnh không tràn dịch và nói chung có lẽ chiếm khoảng 60 đến 70% các trường hợp. Quá trình lâm sàng của bệnh FIP thay đổi từ vài ngày đến vài tháng. Nói chung bệnh tràn dịch có xu hướng có thời gian ngắn hơn một chút so với bệnh không tràn dịch và hầu hết các trường hợp có quá trình vài tuần. Các dấu hiệu lâm sàng sớm trong FIP là không cụ thể và phổ biến cho cả hai dạng bệnh. Chúng bao gồm sốt, thờ ơ, không thích nghi, sụt cân, tiêu chảy và đôi khi có dấu hiệu đường hô hấp trên nhẹ. Mức độ nghiêm trọng và thời gian của các dấu hiệu này khác nhau, nhưng ngay cả khi khá nghiêm trọng, bản chất mơ hồ của chúng khiến cho việc chẩn đoán sớm FIP trở nên vô cùng khó khăn. Khi bệnh tiến triển, thường có nhiều dấu hiệu của bệnh tràn dịch hoặc không tràn dịch, mặc dù trong một số trường hợp, điều này có thể mất nhiều tuần hoặc nhiều tháng để xảy ra. [caption id="attachment_479" align="alignnone" width="649"] Các dấu hiệu lâm sàng của nhiễm trùng FCoV và FIP[/caption] Tích tụ chất lỏng trong bụng và trướng bụng rõ ràng là một trong những biểu hiện phổ biến nhất của bệnh FIP, nhưng đôi khi chất lỏng sẽ có trong ngực chứ không phải ở bụng (gây khó thở), và đôi khi ở cả hai vị trí. Các tổn thương viêm ở mắt và hệ thần kinh trung ương (gây ra các dấu hiệu thần kinh) và gan (gây vàng da) cũng xảy ra ở một tỷ lệ mèo mắc bệnh 'tràn dịch'. Các dấu hiệu phổ biến của bệnh tràn dịch (trướng bụng và / hoặc khó thở) thường đi kèm với sốt và các dấu hiệu không cụ thể khác được nhìn thấy sớm trong quá trình bệnh. Tuy nhiên, một số con mèo vẫn khỏe mạnh mặc dù có biểu hiện của bệnh nặng. Trong bệnh không tràn dịch, các dấu hiệu lâm sàng có thể rất mơ hồ (sốt kéo dài, sụt cân tăng nhanh và thờ ơ thường là các dấu hiệu chủ yếu) và kéo dài. Trong khoảng 50% các trường hợp, các tổn thương sẽ ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung ương (gây ra các dấu hiệu thần kinh tiến triển, với chứng mất điều hòa (ataxia) - dáng đi 'lắc lư' - có lẽ là biểu hiện phổ biến nhất) và / hoặc mắt (gây ra những thay đổi như viêm màng bồ đào hoặc viêm võng mạc được phát hiện khi khám mắt). Vàng da cũng là một biểu hiện tương đối phổ biến. Một số con mèo mắc FIP loại này cũng có một lượng nhỏ tràn dịch ở bụng hoặc ngực của chúng, nhưng không đủ nghiêm trọng để gây khó chịu hoặc cản trở hô hấp, việc có thể hữu ích trong chẩn đoán (xem bên dưới). Làm thế nào để chẩn đoán bệnh FIP?FIP là một trong những bệnh khó chẩn đoán nhất ở mèo. Một loạt các dấu hiệu lâm sàng làm cho bệnh FIP được cân nhắc nhiều trong nhiều trường hợp lâm sàng khác nhau và không có xét nghiệm trong phòng thí nghiệm thông thường có thể được sử dụng để xác nhận chắc chắn các nghi ngờ lâm sàng trong chẩn đoán. [caption id="attachment_478" align="alignnone" width="661"] Làm thế nào để chẩn đoán bệnh FIP[/caption] Khi quyết định liệu FIP có khả năng hoặc có thể xảy ra trong bất kỳ trường hợp riêng lẻ nào hay không, cần xem xét đến lý lịch của con mèo và các đặc điểm trước đó, đối với các dấu hiệu lâm sàng mà mèo thể hiện và kết quả của một loạt các xét nghiệm trong phòng thí nghiệm thông thường. Những điều này có thể dẫn đến bằng chứng đầy đủ cho việc chẩn đoán giả định về bệnh FIP đã được thực hiện, nhưng nếu có nhiều nghi ngờ đáng kể tồn tại thì kiểm tra xác nhận sinh thiết mô có thể là cần thiết. Chuẩn đoán giả định bệnh FIP?Một đánh giá đầy đủ về hình ảnh lâm sàng và kết quả của các xét nghiệm trong phòng thí nghiệm thông thường là cần thiết để cho phép chẩn đoán giả định bệnh FIP. Lý lịch mèoCác trường hợp mắc FIP rất phổ biến ở mèo nhỏ (dưới hai tuổi), ở mèo chung huyết thống hoặc từ các gia đình nuôi nhiều mèo. Mèo già và các con mèo từ các hộ gia đình nuôi ít mèo cũng phát triển FIP, nhưng những trường hợp này ít phổ biến hơn và với các dấu hiệu lâm sàng phù hợp và dữ liệu từ phòng thí nghiệm hỗ trợ, chỉ số nghi ngờ sẽ cao hơn ở những con mèo được biết là đến từ nơi có rủi ro mắc bệnh cao hơn. Dấu hiệu lâm sàng bệnh FIPTrong trường hợp nghi ngờ FIP, kiểm tra lâm sàng kỹ lưỡng được thực hiện để thử và xác định bất kỳ dấu hiệu hoặc thay đổi nào phù hợp với chẩn đoán. Điều này bao gồm kiểm tra mắt và thần kinh kỹ lưỡng xem có nghi ngờ bệnh tràn dịch hay không tràn dịch và kiểm tra cẩn thận (ví dụ: chụp X quang hoặc siêu âm) để phát hiện sự hiện diện của một lượng nhỏ tràn dịch. Nếu có tràn dịch, phân tích trong phòng thí nghiệm về chất dịch là một trong những xét nghiệm hữu ích nhất trong phòng thí nghiệm thông thường. Tương tự như vậy nếu nghi ngờ bệnh tràn dịch ổ bụng, chụp X quang lồng ngực để phát hiện tràn dịch màng phổi có thể có giá trị, vì một số bệnh khác tạo ra tràn dịch với các đặc điểm đặc trưng của bệnh FIP ở cả khoang bụng và lồng ngực. Vì FIP là một bệnh tiến triển, các biểu hiện lâm sàng sẽ thay đổi theo thời gian. Đạt được chẩn đoán ở giai đoạn đầu khi các dấu hiệu lâm sàng mơ hồ có thể vô cùng khó khăn, nhưng trong hầu hết các trường hợp, khi thời gian trôi qua, các dấu hiệu FIP cũ hơn sẽ phát triển. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là kiểm tra lâm sàng lặp lại và kỹ lưỡng (và xét nghiệm máu) có thể được yêu cầu trong các trường hợp đang diễn ra để phát hiện sự phát triển của những thay đổi này. Xét nghiệm trong phòng thí nghiệm thông thường[caption id="attachment_483" align="alignnone" width="655"] Xét nghiệm trong phòng thí nghiệm thông thường[/caption] Kết quả của các xét nghiệm trong phòng thí nghiệm thông thường rất hữu ích trong việc hỗ trợ chẩn đoán giả định FIP, hoặc gợi ý một số nguyên nhân khác cho các dấu hiệu lâm sàng có nhiều khả năng. Về huyết học thông thường, các đặc điểm phù hợp nhất là giảm bạch huyết bào – lymphopenia (số lượng tế bào lympho thấp), tăng bạch cầu trung tính (số lượng bạch cầu trung tính cao) có thể đi kèm với dịch chuyển trái (hiện diện của bạch cầu trung tính chưa trưởng thành) và thiếu máu không tái tạo nhẹ. Tất cả những điều này là những thay đổi không rõ ràng có thể xảy ra với bệnh khác. Tương tự, thay đổi sinh hóa huyết thanh là không rõ ràng trong FIP, với những bất thường phổ biến nhất là nồng độ protein trong máu cao (sự gia tăng nồng độ protein trong máu) do tăng glucose máu (nồng độ globulin cao), thường đi kèm với nồng độ albumin huyết thanh thấp hoặc thấp đến bình thường. Tăng nồng độ protein trong máu đã được báo cáo trong 50% đến 80% các trường hợp FIP, nhưng thay đổi từ nhẹ đến rất rõ rệt (do sự hiện diện của các protein gây viêm và sản xuất kháng thể / globulin miễn dịch). Những thay đổi sinh hóa khác được thấy với FIP bao gồm vàng da hoặc tăng bilirubin máu (trong khoảng 25% trường hợp) và men gan tăng cao. Mặc dù tất cả các thay đổi về huyết học và sinh hóa được thấy với FIP là không rõ ràng và có thể xảy ra với nhiều bệnh khác, nhưng chúng vẫn có giá trị trong việc chẩn đoán bệnh. Ở một con mèo có dấu hiệu lâm sàng đặc biệt, nếu có nhiều bất thường về huyết học và sinh hóa điển hình của những thay đổi được thấy với FIP, điều này làm tăng khả năng FIP là nguyên nhân cơ bản của bệnh. Ngược lại, nếu có ít hoặc không có thay đổi điển hình nào được quan sát, FIP là nguyên nhân cơ bản không thể xảy ra. Tuy nhiên, kết quả của các xét nghiệm này có thể gây hiểu nhầm, vì đôi khi các trường hợp FIP được xác nhận cho thấy không có bất thường về huyết học và sinh hóa thông thường, trong khi các bệnh khác đôi khi có thể dẫn đến tất cả các thay đổi liên quan đến FIP. Huyết thanh CoronavirusHuyết thanh Coronavirus (kháng thể với virus) thường được thực hiện như là một phần của sàng lọc mèo định kỳ với những con mèo nghi ngờ nhiễm FIP. Sự phụ thuộc quá mức không nên được đặt vào xét nghiệm này, và nó không có giá trị hơn kết quả của huyết học và sinh hóa thông thường. Không có xét nghiệm nào có thể phân biệt giữa các chủng FCoV khác nhau và do đó, kết quả dương tính chỉ đơn giản cho thấy một con mèo đã tiếp xúc với một chủng FCoV. Sự hiện diện và cường độ của độ chuẩn kháng thể không thể phân biệt loại chủng FCoV mà mèo đã tiếp xúc, cho dù nhiễm trùng là hiện tại hay trước đó, hoặc liệu con mèo có mẫn cảm hay chống lại sự phát triển của FIP hay không. Do đó, việc giải thích độ chuẩn coronavirus đòi hỏi sự cẩn thận cao và độ chuẩn dương tính trong bối cảnh tỷ lệ mắc bệnh huyết thanh dương tính cao trong quần thể mèo cưng nói chung (thường là 25 đến 40% là huyết thanh dương tính) và tỷ lệ mắc bệnh huyết thanh dương tính rất cao trong các hộ gia đình nuôi nhiều mèo trong đó thông thường 80 đến 100% là huyết thanh dương tính. Nhìn chung, mèo mắc FIP có xu hướng có độ chuẩn kháng thể FCoV cao hơn so với mèo khỏe mạnh, nhưng có sự trùng lặp hoàn toàn về cường độ độ chuẩn giữa các quần thể này do đó việc giải thích kết quả ở một cá thể là vô cùng phức tạp. Hơn nữa, một số ít mèo có FIP được xác nhận cũng thiếu các kháng thể FCoV có thể phát hiện được. Phân tích chất lỏngPhân tích tràn dịch vẫn là một trong những xét nghiệm thông thường có giá trị nhất để chẩn đoán FIP. Đây là lý do tại sao ngay cả trong các trường hợp nghi ngờ mắc bệnh không lây nhiễm, vẫn đáng thực hiện các cuộc điều tra để đánh giá xem có một lượng nhỏ tràn dịch và có thể được hút hay không. Trong trường hợp bị bệnh FIP mèo thường chảy dịch rất thường xuyên, nhưng không phải lúc nào cũng có màu rơm và nhớt do hàm lượng protein cao. Trong tràn dịch FIP, tổng hàm lượng protein của chất lỏng vượt quá 35 g/l (với mức khoảng 60 g/l là điển hình) và hàm lượng globulin luôn chiếm 50% hoặc hơn tổng hàm lượng protein. Số lượng tế bào của tràn dịch thường nhỏ hơn 20 x 106/ml. Một số bệnh khác tạo ra tràn dịch tương tự như đã thấy trong FIP, và với sự có mặt của các bằng chứng hỗ trợ khác (dấu hiệu lâm sàng và dữ liệu phòng thí nghiệm), điều này có thể cung cấp bằng chứng mạnh mẽ cho chẩn đoán giả định. Việc phát hiện loại tràn dịch này ở nhiều hơn một khoang cơ thể (ví dụ: ngực và bụng) cung cấp nhiều bằng chứng thuyết phục hơn. Các xét nghiệm bệnh FIP khácNhững tiến bộ trong sinh học phân tử đã dẫn đến sự phát triển của các kỹ thuật nhạy bén để phát hiện các chuỗi di truyền của virus (bao gồm FCoV) trong mẫu máu, ví dụ thông qua phương pháp được gọi là phản ứng chuỗi polymerase (PCR). Kinh nghiệm với xét nghiệm này cho thấy, cũng như xét nghiệm kháng thể, PCR không thể phân biệt được chủng FCoV mà mèo đã tiếp xúc và rất nhiều mèo khỏe mạnh dương tính khi sử dụng xét nghiệm này (có thể phản ánh nhiễm trùng với các chủng FCoV không độc hại). Do đó, kết quả của các nghiên cứu cho thấy xét nghiệm này có rất ít, nếu có bất kỳ giá trị nào, trong chẩn đoán FIP thường kì và tốt nhất là không có giá trị hơn huyết thanh học. Phát hiện sự hiện diện của virus bằng PCR trong các đợt tràn dịch (trong FIP 'ướt') hoặc trong CSF (trong trường hợp bệnh thần kinh) có thể có giá trị chẩn đoán cao hơn, mặc dù những kết quả này lại có thể gây hiểu nhầm. Ở những con mèo có các biểu hiện thần kinh liên quan đến FIP, phân tích dịch não tủy (CSF - chất dịch bao quanh não và tủy sống) có thể cung cấp thông tin bổ sung có giá trị, cả hai để hỗ trợ chẩn đoán FIP và loại trừ các nguyên nhân tiềm tàng khác của dấu hiệu lâm sàng. Với FIP, các mẫu CSF thường được chứng tỏ sự quan trọng trong cả tổng số tế bào trắng (với ưu thế là bạch cầu trung tính) và tổng mức protein. Hướng tới chẩn đoán cuối cùngTrong nhiều trường hợp, kết quả của các cuộc nghiên cứu có thể đưa ra đủ căn cứ để chẩn đoán giả định FIP được đưa ra. Tuy nhiên, không có gì lạ khi chẩn đoán cuối cùng là mong muốn trước khi quyết định liệu có nên thực hiện điều trị đái tháo đường hay không, và khi sự hiện diện của bệnh có liên quan đến các động vật tiếp xúc khác. Cách duy nhất để chẩn đoán FIP dứt khoát là kiểm tra mô bệnh học (histopathological) của các mô bị ảnh hưởng được thu thập khi khám nghiệm tử thi hoặc thu thập tử thi từ các vị trí thích hợp (ví dụ: hạch bạch huyết, gan, thận, v.v.). Do đó, khi nghi ngờ đáng kể về chẩn đoán FIP tràn dịch vẫn còn, phẫu thuật thủ công có thể được chỉ định để thu thập sinh thiết của mô bị ảnh hưởng để phân tích mô học. Tương tự như vậy trong bệnh nghi ngờ không tràn dịch, có thể tìm kiếm bằng chứng về sự liên quan của bệnh tại các vị trí có thể thu thập sinh thiết vật liệu, bằng phẫu thuật hoặc sinh thiết bằng kim qua da bằng hướng dẫn siêu âm nếu cần thiết. Kiểm tra siêu âm ổ bụng có thể đặc biệt hữu ích trong trường hợp này, để phát hiện u hạt trong gan, thận hoặc lá lách, hoặc để phát hiện các hạch bạch huyết mở rộng. Xem thêm về histopathological: tại đây Kiểm tra bằng kính hiển vi các mô bị ảnh hưởng bởi FIP cho thấy các dấu hiệu viêm đặc trưng, nhưng nếu có nghi ngờ về việc liệu FIP có gây viêm hay không, có thể tìm kiếm xác nhận thêm bằng cách phát hiện sự hiện diện của FCoV trong các tổn thương bằng phương pháp hóa mô miễn dịch (immunohistochemistry) (quy trình nhuộm màu đặc biệt để phát hiện virus). Bệnh FIP có thể được điều trị?Một khi các dấu hiệu lâm sàng của FIP phát triển, nó thường là một căn bệnh nan y và gây tử vong. Mặc dù các trường hợp đặc biệt phục hồi tự phát xảy ra, nhưng đây là những trường hợp cực kỳ hiếm gặp và bệnh thường bao gồm cả tiến triển và gây tử vong. Liệu pháp truyền dịch, hỗ trợ dinh dưỡng và điều trị triệu chứng bằng corticosteroid (Xem thêm: tại đây) có lẽ là những biện pháp điều trị phổ biến nhất được sử dụng và điều này có thể làm giảm tạm thời các dấu hiệu lâm sàng. Tuy nhiên, những lo ngại tồn tại trong các hộ gia đình nuôi nhiều mèo là một con mèo mắc bệnh lâm sàng rõ ràng có khả năng thải ra FCoV độc hại, do đó chúng có nguy cơ tiềm ẩn đối với những con mèo tiếp xúc với chúng. Ở những con mèo bị ảnh hưởng nghiêm trọng, trợ tử thường là cách hành động nhân đạo nhất để tránh phải chịu đau đớn khi bị bệnh. Người ta đã cố gắng điều trị mèo bị bệnh FIP bằng sự kết hợp giữa thuốc điều hòa miễn dịch và thuốc kháng virus với hy vọng ức chế sự nhân lên của virus đồng thời kích thích phản ứng miễn dịch qua trung gian tế bào. Cách tiếp cận như vậy là hấp dẫn, nhưng cho đến nay vẫn chưa thực sự có ích. Đã có một số báo cáo về phản ứng tiềm năng đối với việc sử dụng interferon (Xem thêm: tại đây) ở một số con mèo bị ảnh hưởng nhưng một lần nữa, dữ liệu quan trọng để xác nhận giá trị của loại trị liệu này là thiếu. Làm thế nào FIP có thể được ngăn chặn và kiểm soát?Các chiến lược quản lý để ngăn chặn mèo phát triển FIP bị cản trở ở nhiều khía cạnh. Các chủng virus gây ra FIP là đột biến hiếm gặp của một loại virus có mặt ở hầu hết các quần thể mèo. Nhiễm các chủng virus gây bệnh và phân biệt với các chủng không gây bệnh là không thể trong tình huống lâm sàng và việc chẩn đoán chính xác căn bệnh này là một vấn đề. Tuy nhiên, các chiến lược quản lý đã được phát triển để giúp ngăn chặn khả năng FIP phát triển, ở một mức độ lớn nhằm mục đích ngăn ngừa hoặc giảm tỷ lệ nhiễm trùng cơ bản với FCoV. Vật nuôi trong gia đìnhNói chung, FIP không phổ biến ở vật nuôi trong gia đình (trừ trường hợp mèo con được nhận về từ các nơi có nhiễm FCoV). Lý tưởng nhất, để giảm thiểu rủi ro xảy ra sự cố này, nên nhận nuôi trong gia đình có tương đối ít mèo hoặc nơi nuôi mèo trong các nhóm nhỏ ổn định. Và nên nhận nuôi những chú mèo con được xét nghiệm là có huyết thanh âm tính với FCoV. Nếu vật nuôi trong gia đình được nuôi riêng lẻ hoặc trong các nhóm nhỏ, ổn định, nguy cơ phát triển FIP là rất thấp. Khác với việc lựa chọn mèo con mới từ các nguồn một cách cẩn thận (mèo con khỏe mạnh có lý lịch khỏe mạnh) và tránh để số lượng lớn mèo chia sẻ một không gian sống, các biện pháp cụ thể để giảm nguy cơ FIP ở mèo cưng trong gia đình rất khó được khuyến nghị và có lẽ không được đảm bảo do tần số FIP thấp. Các trại nhân giống bị nhiễm FIPTrong các trại nhân giống có tiền sử nhiễm FIP, hai phương pháp quản lý đã được ủng hộ: hoặc loại bỏ nhiễm trùng hoặc thực hiện các biện pháp để thử và giảm tần suất bệnh. Giảm nhiễm trùng là rất tốn công, tốn thời gian và đòi hỏi một cam kết đáng kể. Hơn nữa, do tính chất phổ biến của nhiễm trùng FCoV, việc duy trì một nơi không có virus có thể cực kỳ khó khăn. Do đó, hệ thống này không phù hợp để sử dụng trong hầu hết các tình huống gia đình hoặc chăn nuôi. Một cách tiếp cận thực tế hơn là xem xét việc loại bỏ nhiễm FCoV ở mèo con sinh ra trong môi trường hay bị nhiễm FCoV, do đó đem đến cơ hội bán hoặc nhận nuôi với mèo con không bị nhiễm FCoV. Cách tiếp cận này đã được chứng minh là hoạt động tốt trong một số nghiên cứu nhưng có thể không phải lúc nào cũng hoàn toàn thành công. Nếu mèo mẹ mang thai được cách ly trước khi chúng sinh con trước 1-2 tuần và sau đó được cách ly với mèo con khi sinh (trong khi sử dụng các quy trình vệ sinh tốt để ngăn ngừa môi trường lây nhiễm sang mèo con), một tỷ lệ đáng kể của những chú mèo con này sẽ vẫn còn kháng thể FCoV âm tính một khi bất kỳ kháng thể có nguồn gốc từ mèo mẹ đã suy yếu. Sau khi cai sữa, mèo mẹ vẫn sẽ bị cách ly với mèo con và mèo con sẽ được xét nghiệm ở 12-16 tuần tuổi để tìm kháng thể FCoV. Nếu xét nghiệm là huyết thanh âm tính, quy trình cách ly sẽ thành công và chúng sẽ được tìm nhà mới với thông báo là âm tính với FcoV. Cách này đôi khi thất bại nếu bản thân mèo mẹ thải ra FCoV và truyền lại cho mèo con. Người ta cho rằng điều này có thể ít xảy ra nếu là mèo mẹ lớn tuổi (lớn hơn hai tuổi), nhưng có thể được giúp đỡ bằng cách cai sữa sớm cho mèo con (lúc 5 đến 6 tuần tuổi khi khả năng miễn dịch có nguồn gốc từ mèo mẹ vẫn còn bảo vệ) và cách ly mèo mẹ ra khỏi mèo con. Vệ sinh tốt cũng là một phần quan trọng trong việc kiểm soát sự lây lan của FCoV sang mèo con trong những tình huống này. Mặc dù các quy trình này đã được chứng minh là thành công, nhưng chúng cũng đòi hỏi sự cam kết đáng kể từ các nhà lai tạo, và có những lo ngại thực sự về sự phát triển hành vi và xã hội của mèo con khi chúng được nuôi cách ly đến bốn tháng tuổi. Sự phát triển về hành vi sẽ tốt hơn khi mèo mẹ được nuôi mèo con, nhưng thậm chí điều này còn phụ thuộc vào trường hợp của từng mèo con. Vì việc loại bỏ nhiễm FCoV hoặc thậm chí chỉ cần loại bỏ nhiễm trùng ở mèo con là khó khăn và có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của chúng ở các khía cạnh khác, thường có thể thích hợp hơn để chấp nhận rằng có nhiễm FCoV và đưa ra các biện pháp để giảm thiểu tỷ lệ nhiễm trùng này, và giảm thiểu tác động của nó. Các biện pháp kiểm soát thực tế đã được khuyến nghị ghi nhớ rằng đường phân-miệng (faecal-oral route) là cách lây lan chủ yếu của virus:
Những con mèo mới gia nhập một đàn mèo đều có nguy cơ tiềm ẩn phát tán các FCoV. Việc kiểm dịch ngắn hạn có lẽ không hữu ích vì sự phát tán virus có thể tồn tại trong nhiều tuần đến vài tháng. Đưa một con mèo như vậy cho một nhóm mèo trưởng thành nhỏ hoặc ổn định (xem ở trên) có khả năng mang rủi ro thấp nhất. Nếu một con mèo được đưa vào một hộ gia đình có nguy cơ cao nhiễm bệnh, thì việc xét nghiệm huyết thanh FCoV trước tiên là điều hợp lý và nếu con mèo có độ chuẩn thấp hoặc âm tính thì nên tiến hành tiêm phòng trước khi đưa vào nhà. Tuy nhiên, loại vắc-xin hiệu quả vẫn chưa có sẵn ở Anh. Các nơi bán và nuôi mèo để lấy giống cũng là nguồn lây nhiễm bệnh, mặc dù việc vệ sinh tại các nơi này có lẽ cũng đủ để giảm thiểu việc truyền nhiễm. Tương tự như vậy, rủi ro có thể giảm bằng cách giới hạn thời gian tiếp xúc giữa mèo đực và mèo cái và không cho phép chúng dùng chung thức ăn, nước và khay đựng phân với nhau; tuy nhiên điều này có thể không phải lúc nào cũng thực hiện được. Các trại nhân giống không có tiền sử nhiễm FIPTrong hầu hết các trường hợp, tình trạng FCoV của mèo trong một trại nhân giống sẽ không được biết. Các trường hợp xét nghiệm huyết thanh của mèo, trong trường hợp không có bệnh có giá trị hạn chế vì hầu hết các trại nhân giống sẽ vẫn bị nhiễm FCoV và do đó hầu hết các con mèo sẽ kiểm tra huyết thanh dương tính. Tuy nhiên, có một số trường hợp ngoại lệ cho điều này và một số trại nhân giống có thể chứa những con mèo được biết là huyết thanh âm tính. Vì mèo có huyết thanh âm tính không có khả năng bị nhiễm virus, nên trong những tình huống như vậy, cần nỗ lực để duy trì nơi ở không bị nhiễm trùng (thông qua các biện pháp phòng ngừa vệ sinh và kiểm tra mèo trước khi được đưa vào nơi ở) trong khi nhận ra rằng việc duy trì tình trạng lâu dài FcoV âm tính là vô cùng khó khăn. Các trung tâm cứu hộKiểm soát FIP trong các trung tâm cứu hộ phải tuân theo các quy tắc tương tự như kiểm soát FIP trong các trại nhân giống. Vệ sinh đầy đủ và tránh quá đông là những quy tắc cần thiết để giảm thiểu rủi ro FIP trong những tình huống như vậy. Mèo nên được nuôi riêng, hoặc nếu điều này là không thể, nên đưa mèo vào từng đợt riêng và được giữ trong các nhóm nhỏ ổn định. Có vắc-xin cho FIP không?Một loại vắc-xin FIP thương mại đã được phát triển dựa trên việc tiêm phân lập FCoV nội bào, chỉ sao chép trong các mô của đường hô hấp trên và được thiết kế để tạo ra phản ứng miễn dịch tốt. Vắc-xin này có sẵn ở nhiều nơi trên thế giới, nhưng hiện tại không có ở Anh và các câu hỏi đã được đặt ra về hiệu quả của nó với các nghiên cứu khác nhau cung cấp kết quả rất khác nhau. Có vẻ như vắc-xin có thể có hiệu quả trong một số tình huống, nhưng nó không bảo vệ hoàn toàn 100%. Ngoài ra, vắc-xin hiện chỉ được cấp phép sử dụng cho mèo con trên 16 tuần tuổi và trong các tình huống cụ thể, hầu hết mèo con ở độ tuổi này sẽ bị nhiễm FCoV. Tuy nhiên, có một số tình huống trong đó vắc-xin có thể có giá trị - nếu mèo con được nuôi trong điều kiện để tránh phơi nhiễm với FCoV, chúng có thể được tiêm vắc-xin trước khi đưa vào môi trường có nguy cơ cao, và tương tự với các huyết thanh âm tính khác (hoặc độ chuẩn) mèo đang được đưa vào một môi trường có nguy cơ cao (ví dụ: nơi thường xuyên nhiễm FIP) những thứ này cũng có thể có nhiều lợi ích từ việc tiêm phòng. Tuy nhiên, vì FIP không phải là một bệnh phổ biến (ước tính ảnh hưởng đến không quá 1 trong 5000 con mèo cưng) và vắc-xin không hiệu quả 100% nên không thể tiêm vắc-xin định kỳ cho mèo. CÁC CÂU HỎI THƯỜNG GẶP VỀ BỆNH FIP[caption id="attachment_477" align="alignnone" width="628"] CÁC CÂU HỎI THƯỜNG GẶP VỀ FIP[/caption] FIP là gì?Viêm phúc mạc do nhiễm trùng (FIP) là một bệnh nhiễm trùng ở mèo gây ra bởi một chủng virus coronavirus độc hại (FCoV). Mèo rất hay bị nhiễm FCoV, nhưng hầu hết các chủng virus này gây ra ít hoặc không có bệnh. Chỉ hiếm khi các chủng xuất hiện có khả năng nhiễm FIP gây tử vong. Do đó, FIP là một biểu hiện bệnh không phổ biến của nhiễm virus rất phổ biến ở mèo. Trong FIP, virus có thể nhân lên khắp cơ thể gây ra nhiều dấu hiệu lâm sàng. Thật không may, trong hầu hết mọi trường hợp, một khi các dấu hiệu lâm sàng của bệnh phát triển, mèo sẽ chết vì FIP, hoặc sẽ cần phải được trợ tử do tiến triển của bệnh. Bệnh được gọi là viêm phúc mạc do nhiễm trùng (infectious peritonitis), vì viêm phúc mạc là một trong những biểu hiện phổ biến nhất (và được công nhận đầu tiên) của nhiễm trùng. Tuy nhiên, rất nhiều dấu hiệu khác nhau có thể được nhìn thấy tùy thuộc vào các vị trí bị ảnh hưởng bởi virus. Các dấu hiệu lâm sàng của FIP là gì?Các dấu hiệu lâm sàng của FIP là vô cùng đa dạng. Nhìn chung, hai dạng bệnh được công nhận, nên được gọi là “FIP ướt” – “wet FIP” và “FIP khô” – “dry FIP”. Trong “FIP ướt”, các dấu hiệu rõ ràng nhất là do sự tích tụ chất lỏng trong các khoang cơ thể - thường là ở bụng (cuối cùng gây sưng và đau bụng rõ rệt) hoặc ngực (quanh phổi) gây khó thở. Trong trường hợp “FIP khô”, bệnh chủ yếu biểu hiện dưới dạng các khu vực viêm trong các mô khác nhau của cơ thể. Điều này có thể dẫn đến các dấu hiệu lâm sàng rất đa dạng và thường phức tạp bao gồm bệnh thần kinh, bệnh mắt, bệnh gan, bệnh thận và bệnh đường ruột. Một số con mèo cũng có hỗn hợp các dạng bệnh 'ướt' và 'khô'. Những con mèo bị ảnh hưởng thường khá ốm yếu, trở nên lờ đờ với sự thèm ăn và giảm cân kém và thường bị sốt. Quá trình của bệnh có thể thay đổi từ một vài ngày đến một vài tháng. Ở giai đoạn đầu, một số con mèo vẫn bình thường, nhưng theo thời gian có một sự suy giảm không thể tránh khỏi. Thật không may, không có dấu hiệu lâm sàng nào với FIP là chẩn đoán cho tình trạng này - nhiều bệnh khác có thể gây ra các dấu hiệu tương tự. FIP có thể được chẩn đoán như thế nào?Chẩn đoán FIP là rất khó khăn. Sự phát triển của các dấu hiệu lâm sàng điển hình có thể dẫn đến sự nghi ngờ về căn bệnh này, nhưng những điều này không phải là triệu chứng của bệnh. Trong các xét nghiệm máu thông thường, FIP thường sẽ gây ra nhiều thay đổi, bao gồm thay đổi về huyết học (số lượng hồng cầu và bạch cầu) và sinh hóa (protein máu, xét nghiệm chức năng gan và thận, v.v.). Tuy nhiên, một lần nữa, mặc dù những thay đổi này có thể gợi ý hoặc hỗ trợ chẩn đoán FIP, nhưng chúng ta cũng không thể chắc chắn được vì luôn có sự thay đổi trong các trường hợp FIP. Khi chất dịch phát triển trong ngực hoặc bụng, việc lấy một mẫu chất dịch này là điều đơn giản và phân tích mẫu chất dịch này là rất có giá trị. Trong trường hợp FIP, chất dịch có nồng độ protein và globulin (một loại protein) rất cao. Việc tìm thấy một chất dịch điển hình của FIP hỗ trợ mạnh mẽ cho việc chẩn đoán, mặc dù một lần nữa có một số bệnh khác có thể gây ra sự tích tụ chất dịch có đặc điểm tương tự. Hiện tại, cách duy nhất để xác nhận chẩn đoán FIP là xem xét các thay đổi mô học (kính hiển vi) trong các mô bị ảnh hưởng (thu được bằng sinh thiết hoặc khi khám nghiệm tử thi). Trường hợp có nghi ngờ đáng kể về chẩn đoán hoặc điều quan trọng là phải chắc chắn liệu FIP có tồn tại hay không, việc kiểm tra các mô theo cách này là điều cần thiết. Huyết thanh coronavirus là gì (xét nghiệm FIP)?Xét nghiệm huyết thanh coronavirus là xét nghiệm trong phòng thí nghiệm phát hiện kháng thể trong mẫu máu của mèo chống lại coronavirus của mèo (FCoV). Tuy nhiên, xét nghiệm máu này không có khả năng phân biệt giữa các chủng FCoV khác nhau và không thể phân biệt giữa các chủng gây ra FIP và các chủng phổ biến hơn. Ngoài ra, sự hiện diện của kháng thể không nhất thiết ngụ ý rằng con mèo hiện đang bị nhiễm FCoV, mặc dù trong thực tế, có vẻ như trong hầu hết các con mèo dương tính kháng thể FCoV có thể được tìm thấy. Mặc dù xét nghiệm máu này thường được sử dụng như một phần trong các xét nghiệm nghi ngờ mắc FIP, nhưng nó không đặc biệt hữu ích vì một số lượng rất lớn những con mèo hoàn toàn khỏe mạnh có kết quả xét nghiệm dương tính phản ánh mức độ phơi nhiễm với FCoV cao trong quần thể mèo (hầu hết các chủng không có khả năng gây ra bất kỳ bệnh đáng kể). Ở một con mèo khỏe mạnh, việc tìm thấy các kháng thể chống lại FCoV trong xét nghiệm máu là không đáng ngạc nhiên cũng không đáng báo động. Điều này là phổ biến (như việc tìm thấy các kháng thể chống lại nhiều tác nhân lây nhiễm) và không cần biện pháp phòng ngừa đặc biệt nào trừ khi xét nghiệm được thực hiện như một phần quá trình để cố gắng loại bỏ hoặc kiểm soát nhiễm trùng FCoV trong tình huống nguy hiểm. FIP lây lan như thế nào?Virus gây ra FIP trên thực tế là một biến thể (đột biến tự phát) của một bệnh nhiễm trùng rất phổ biến ở mèo. Nhiễm virus coronavirus (FCoV) là cực kỳ phổ biến (có thể từ 10% đến 30% trong số tất cả các con mèo cưng đã bị nhiễm virus này tại một số thời điểm), nhưng trong phần lớn các trường hợp, virus sẽ không gây ra biểu hiện gì nghiêm trọng hơn tiêu chảy nhẹ. Tuy nhiên, đôi khi một biến thể của virus xuất hiện gây ra bệnh nặng hơn và trong tình huống này, trừ khi mèo bị nhiễm bệnh có thể kiểm soát nhiễm trùng bằng một phản ứng miễn dịch tốt, FIP sẽ phát triển. FIP phổ biến như thế nào?Viêm phúc mạc truyền nhiễm là một bệnh tương đối hiếm gặp ở mèo, nhưng phổ biến hơn ở mèo trong các khu vực có bệnh và ở mèo nhỏ (dưới một đến hai tuổi). Con số chính xác rất khó để có được, nhưng ước tính tỷ lệ mắc FIP ở mèo nhà nói chung là khoảng 0,02% (tức là khoảng một con chết mỗi năm trong mỗi 5000 con mèo). Tuy nhiên, trong trường hợp nhiều mèo bị nhốt chung (nơi có thể dễ dàng truyền virus) và ở nơi có mèo nhỏ (dễ bị FIP hơn), bệnh phổ biến hơn nhiều. Do đó, ở một số hộ gia đình hoặc các trại nhân giống, tỷ lệ mắc FIP có thể lên tới 5%. FIP có thể được điều trị?Thật không may, không có phương pháp điều trị được biết đến cho bệnh FIP. Ở những con mèo mà được chẩn đoán hoặc nghi ngờ mắc bệnh thì việc hành động ngay lập tức phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của bệnh. Trong một số trường hợp, việc trợ tử ngay lập tức là điều cần thiết trên cơ sở nhân đạo. Ở những con mèo khác, điều trị giảm nhẹ (palliative treatment) có thể được cung cấp bằng thuốc chống viêm (Ví dụ: prednisolone, xem: tại đây) trong một khoảng thời gian để làm cho mèo thoải mái. Tuy nhiên, căn bệnh này cuối cùng sẽ tiến triển và cái chết là điều khó tránh khỏi. Mèo có thể bị nhiễm FIP tại các nơi nuôi/bán mèo không?Trong hầu hết các trường hợp, virus gây ra bệnh viêm phúc mạc truyền nhiễm phát sinh là đột biến tự phát của nhiễm trùng FCoV hiện có ở mèo và virus gây ra FIP thường không lây từ mèo sang mèo. Do đó, rủi ro trực tiếp nhiễm FIP tại các nơi nuôi/bán mèo là cực kỳ thấp. Tuy nhiên, nhiễm trùng FCoV cũng có khả năng lây lan tại các nơi nuôi/bán mèo. Virus thường được thải ra trong phân và có thể làm nhiễm bẩn lông. Do đó, nếu các biện pháp phòng ngừa vệ sinh không đầy đủ, có khả năng virus sẽ lây lan giữa các con mèo. Khử trùng cẩn thận bàn ghế, tay và thiết bị, cùng với việc giảm thiểu số lượng cần xử lý cũng sẽ giúp giảm nguy cơ lây nhiễm. Nên làm gì khi nghi ngờ mèo bị nhiễm FIP?Hành động quan trọng nhất cần thực hiện nếu bạn nghi ngờ mèo của bạn bị FIP là tìm kiếm lời khuyên thú y càng sớm càng tốt. Một loạt các cuộc xét nghiệm có thể cần được thực hiện để điều tra khả năng nhiễm bệnh viêm phúc mạc truyền nhiễm FIP (kiểm tra lâm sàng, xét nghiệm máu, X quang, v.v.). Trong trường hợp cần chẩn đoán xác định thì sinh thiết mô có thể sẽ được yêu cầu. Trong hầu hết các trường hợp, những con mèo phát triển FIP sẽ không thải ra được virus gây bệnh FIP độc hại và do đó sẽ không gây nguy hiểm cho những con mèo tiếp xúc khác. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là chúng ta nên chủ quan về việc cho tiếp xúc tự do giữa các con mèo, mà nên cố gắng giữ khoảng cách và môi trường cách biệt an toàn. Làm thế nào FIP có thể được kiểm soát ở mèo cưng?Kiểm soát bệnh viêm phúc mạc truyền nhiễm ở mèo là khó khăn, nhưng vì đây là một bệnh tương đối hiếm gặp trong quần thể mèo cưng nói chung, các biện pháp kiểm soát cụ thể thường không được bảo đảm. Không có vắc-xin hiệu quả hiện có sẵn ở Anh, và mặc dù vắc-xin này có sẵn ở một số quốc gia khác, nhưng nó cũng không hoàn toàn đáng tin cậy và căn bệnh này không đủ phổ biến để tiêm phòng bảo đảm cho mèo cưng. Nếu một con mèo cưng bị nghi ngờ nhiễm FIP, chúng nên được cách ly với những con mèo khác và xét nghiệm thích hợp (xem ở trên). Nếu phát hiện có bệnh và có những con mèo khác trong gia đình, bệnh có thể lây lan giữa các con mèo, nhưng nói chung hầu hết những con mèo trưởng thành đều có khả năng chống lại nhiễm trùng. Nếu có mèo nhỏ, và đặc biệt là mèo con ở trong gia đình, chúng có nguy cơ nhiễm bệnh cao hơn và cần được theo dõi chặt chẽ các dấu hiệu bệnh. Xét nghiệm máu trên một con mèo khỏe mạnh không có giá trị trong việc dự đoán liệu chúng sẽ phát triển bệnh. Virus lây lan chủ yếu qua đường phân-miệng và không tồn tại lâu trong môi trường vì vậy nên giữ vệ sinh tốt sẽ giảm nguy cơ lây nhiễm bệnh. Virus này nhạy cảm với các chất khử trùng được sử dụng rộng rãi an toàn cho mèo (để biết thông tin về các chất khử trùng xem tại đây). Nên làm gì khi mèo của bạn chết vì bệnh FIP và khi nào bạn có thể nhận nuôi một con mèo khác?Vì hầu hết những con mèo phát triển bệnh viêm phúc mạc truyền nhiễm không thải ra các virus gây bệnh FIP độc hại, nên nguy cơ đối với bất kỳ con mèo nào khác là rất thấp. Tuy nhiên, một số biện pháp phòng ngừa bổ sung có thể được thực hiện để tiếp tục giảm bất kỳ rủi ro tiềm ẩn nào:
Khử trùng bát thức ăn và nước, khay đựng phân mèo và khu vực có mèo cũng sẽ giúp ích trong việc phòng ngừa lây nhiễm bệnh (để biết thông tin về các chất khử trùng xem thêm: tại đây).
Nên làm gì trong các hộ gia đình nuôi mèo hay bị nhiễm bệnh viêm phúc mạc truyền nhiễm?Trên thực tế, cực kỳ khó khăn và tốn thời gian để loại bỏ nhiễm FCoV khỏi các nơi nuôi/bán mèo, mặc dù điều đó có thể được thực hiện. Việc này đòi hỏi phải xét nghiệm thường xuyên những con mèo để cách ly những con mèo có khả năng bị nhiễm FCoV với những con mèo khác, và cuối cùng có thể tìm nhà mới cho một số con mèo khỏe mạnh, không bị nhiễm virus. Ngay cả khi làm được điều này, thì việc duy trì một khu vực không có FCoV cũng là một thách thức lớn. Điều quan trọng là phải có trường hợp nghi ngờ bị nhiễm FIP - các bệnh khác có thể bắt chước các dấu hiệu bệnh của FIP. Thực tế hơn, một số biện pháp có thể được khuyên dùng để giảm sự lây lan của FCoV và giảm nguy cơ nhiễm FIP (chủ yếu là ở mèo con):
Nếu có nhiều trường hợp mắc bệnh FIP hoặc người nuôi muốn để mèo mẹ sinh ra lứa mèo con có tỷ lệ nhiễm bệnh thấp nhất có thể, có một số cách có thể hạn chế được việc lây nhiễm virus. Mèo mẹ mang thai có thể được cách ly từ một đến hai tuần trước và sau đó cách ly với mèo con (trong khi sử dụng các quy trình vệ sinh tốt nhất để ngăn ngừa sự lây nhiễm từ môi trường sang mèo con). Sau khi cai sữa (có thể được thực hiện sớm - lúc 5 đến 6 tuần tuổi - nếu cần thiết), mèo mẹ và mèo con vẫn phải được cách ly và xét nghiệm mèo con ở tuổi từ 12 đến 16 tuần để tìm kháng thể FCoV. Nếu lứa mèo con là huyết thanh âm tính, quy trình cách ly sẽ thành công và mèo con có thể tìm nhà mới với thông báo là mèo có FcoV âm tính. Mặc dù có khả năng thành công, điều này đòi hỏi sự cam kết đáng kể từ người nuôi, và có những lo ngại thực sự về sự phát triển hành vi của mèo con khi chúng được nuôi cách ly đến bốn tháng tuổi. Ngoài ra, kinh nghiệm cho thấy đây không phải là một phương pháp thành công hoàn toàn, việc bỏ ra thời gian và chi phí đáng kể nhưng lại rất ít lợi ích trong một số trường hợp. Điều gì nên được thực hiện trong các trung tâm cứu hộ để kiểm soát bệnh FIP?Hầu như không có sự chứng minh nào cho việc kiểm tra huyết thanh thường xuyên của mèo trong một trung tâm cứu hộ, và không bao giờ được thực hiện các xét nghiệm một cách đơn giản trên cơ sở độ chuẩn của kháng thể cao. Tuy nhiên, do số lượng mèo tương đối lớn trong một các trung tâm cứu hộ, đây là trường hợp có nguy cơ nhiễm FcoV và lây lan bệnh viêm phúc mạc truyền nhiễm cao hơn bình thường. Một số khuyến nghị có thể được thực hiện để giảm rủi ro này:
+ Cách ly giữa các con mèo trong một thời gian (mèo bị bệnh hoặc mới đến) + Mèo đang mang thai + Mèo con (có nguy cơ mắc bệnh FIP và các bệnh truyền nhiễm khác cao hơn)
+ Chẩn đoán xác nhận bằng mô bệnh học, vì nhiều bệnh khác có thể trông giống như FIP. + Không tìm nhà mới ngay cho bất kỳ con mèo nào đã tiếp xúc trực tiếp với các con mèo bị nhiễm bệnh. Những con mèo này có nguy cơ mắc bệnh và lây nhiễm cao nhất, lý tưởng nhất là nên giữ mèo trong khoảng từ hai đến ba tháng trước khi về nhà mới (chúng càng khỏe mạnh, xác suất phát triển bệnh FIP càng thấp). + Nếu việc giữ vệ sinh tốt được duy trì và nếu mèo không bị xáo trộn giữa các nhóm thì nguy cơ lây nhiễm đối với bất kỳ con mèo nào khác sẽ là vô cùng nhỏ. Mèo có thể mang virus SARS (hội chứng hô hấp cấp tính nặng) không?Mặc dù virus SARS ảnh hưởng đến con người là một loại Coronavirus, nhưng hoàn toàn không có bằng chứng nào cho thấy loại virus này có thể lây truyền giữa người và mèo nhà. Có một số bằng chứng cho thấy mèo Cầy hương có thể liên quan đến sự lây lan của căn bệnh này sang người, nhưng thực tế đây không phải là họ nhà mèo (Felidae family). [caption id="attachment_482" align="alignnone" width="627"] Không có bằng chứng nào cho thấy virus SARS có thể lây truyền giữa người và mèo nhà[/caption] (Xem thêm về SARS: tại đây) Bài viết này được trích dịch từ: http://www.thecatgroup.org.uk/policy_statements/fip.html Nguồn: https://monspet.com/ Xem thêm: https://monspetweb.weebly.com/ https://monspetweb.blogspot.com Coi thêm tại : Via https://monspet.com/benh-fip/ Nhiễm trùng kéo dài dai dẳng với virus gây suy giảm miễn dịch ở mèo (FIV) là khá phổ biến, đặc biệt là ở những con mèo không bị nuôi nhốt. Virus có thể gây bệnh rất nghiêm trọng do tình trạng suy giảm miễn dịch được tạo ra trong một khoảng thời gian. Mặc dù nhiều con mèo sống sót trong tình trạng sức khỏe tốt với nhiễm trùng bệnh, chúng có thể truyền virus cho những con mèo khác. Bài viết gốc: https://monspet.com/virus-fiv/ Các tình trạng bệnh liên quan đến nhiễm FIV tương đối không có gì đặc biệt. Trong giai đoạn nhiễm trùng đầu tiên (hai đến bốn tháng đầu), một số con mèo có thể có dấu hiệu bệnh ngắn hạn liên quan đến khó chịu, nôn mửa và có thể tăng hạch bạch huyết. Hầu hết những con mèo đều phục hồi từ giai đoạn đầu này và bước sang giai đoạn thứ hai khi chúng có vẻ khỏe mạnh. Cuối cùng trong giai đoạn thứ ba của nhiễm trùng, các dấu hiệu bệnh khác có thể phát triển. Các dấu hiệu có thể phát sinh như là một tác động trực tiếp của virus. Do đó, việc nhiễm trùng các mô thần kinh có thể dẫn đến các dấu hiệu thần kinh hoặc hành vi, và nhiễm trùng đường ruột có thể liên quan đến một số trường hợp tiêu chảy mãn tính. Tuy nhiên, trong hầu hết các trường hợp, bệnh lâm sàng là kết quả của các vấn đề thứ phát liên quan đến tình trạng suy giảm miễn dịch mà virus cuối cùng có thể gây ra. [caption id="attachment_450" align="alignnone" width="607"] Virus FIV[/caption] Những tình trạng này có thể có nhiều hình thái và do đó các dấu hiệu lâm sàng khá hay thay đổi. Tuy nhiên, sự kết hợp của nhiều dấu hiệu bệnh kéo dài dai dẳng hoặc tái phát có thể chỉ ra tình trạng suy giảm miễn dịch. Các dấu hiệu phổ biến bao gồm khó chịu, sụt cân, ăn mất ngon, sốt, nổi hạch và viêm nướu. Có thể có khuynh hướng đối với các vấn đề mãn tính khác như viêm mũi, viêm kết mạc, áp-xe mãn tính (là một bọc mủ hình thành trong các mô của cơ thể. Các dấu hiệu và triệu chứng đối với những áp-xe ở gần da gồm: ửng đỏ, đau, nóng, và sưng, khi đè lên có cảm giác như một túi chất lỏng hoặc viêm mô tế bào và các vấn đề về da. Những con mèo bị ức chế miễn dịch liên quan đến FIV có nguy cơ phát triển khối u cao hơn, đặc biệt là ung thư hạch và dễ bị tổn thương hơn với các tác nhân truyền nhiễm khác có thể là bất thường, hoặc ít gây hậu quả ở những con mèo khỏe mạnh. Link giải thích Áp xe: https://vi.wikipedia.org/wiki/%C3%81p-xe FIV lây lan như thế nào?Cắn được coi là phương pháp truyền bệnh quan trọng nhất đối với FIV. Nhiễm trùng dường như cũng xảy ra do sự tiếp xúc gần gũi giữa những con mèo sống trong môi trường khép kín, nhưng điều này này được cho là một phương pháp lây lan kém hiệu quả. Người ta nghi ngờ rằng, đối với virus FIV, việc nuốt nước bọt đóng vai trò quan trọng trong việc lây lan bệnh này. Một tỷ lệ nhỏ mèo con (có thể khoảng 1/5) sinh ra từ các con mèo cái bị nhiễm FIV có thể cũng bị nhiễm bệnh. [caption id="attachment_445" align="alignnone" width="600"] Cắn là phương pháp truyền bệnh quan trọng nhất đối với virus FIV[/caption] Sự truyền nhiễm FIV phổ biến như thế nào và các yếu tố nguy cơ là gì?Tỷ lệ mắc FIV chung trong quần thể mèo khỏe mạnh ở Anh là từ 3 – 6%. Các khảo sát về những con mèo bị bệnh được trình cho các hoạt động thú y đã cho thấy tỷ lệ mắc bệnh cao hơn từ 12 đến18%. Tỷ lệ xuất hiện khác nhau ở các khu vực khác nhau và giữa các nhóm mèo khác nhau như mèo hoang và mèo trang trại, nhưng ở nơi có virus thì tỷ lệ nhiễm bệnh có thể cao. Nhiễm trùng là hiếm ở các thuộc địa chăn nuôi phả hệ. Các yếu tố rủi ro quan trọng được ghi nhận đối với FIV có liên quan đến phương pháp lây truyền phổ biến nhất là cắn. Toàn bộ mèo đực có nguy cơ nhiễm bệnh cao hơn và sở thích đi lung tung của chúng làm tăng tỷ lệ mắc bệnh. Mèo có thể bị nhiễm bệnh ở mọi lứa tuổi do đó tỷ lệ nhiễm bệnh tăng theo tuổi. Thường có một khoảng thời gian dài đáng kể giữa việc nhiễm trùng và phát triển các dấu hiệu lâm sàng. Do đó, sự xuất hiện của bệnh phổ biến hơn ở các con mèo trưởng thành hoặc lớn tuổi. Trái ngược với FeLV, nhiều con mèo bị nhiễm FIV vẫn khỏe mạnh trong suốt cuộc đời của chúng. Xét nghiệm virus FIVCó một số hệ thống kiểm tra đang được dùng cho virus FIV bao gồm bộ dụng cụ kiểm tra thực tế. Các xét nghiệm trong thực tế phát hiện kháng thể chống vi-rút, thường được định hướng chống lại protein lõi của virus (p24), protein vỏ màng (gp40) hoặc kết hợp cả hai. Các hệ thống xét nghiệm phổ biến nhất dựa trên các xét nghiệm hấp thụ miễn dịch liên kết với enzyme hoặc immunochromatography - công nghệ sắc ký miễn dịch (IC) –. Các thử nghiệm kết hợp cho phép thử nghiệm đồng thời cho FIV và FeLV được sử dụng rộng rãi. (Link giải thích ELISA - https://vi.wikipedia.org/wiki/ELISA) (Giải tích IC: http://biomedia.vn/review/sac-ky-ion-nhung-diem-can-luu-y-khi-lua-chon.html) Các xét nghiệm chuyên biệt hơn bao gồm miễn dịch huỳnh quang và Western Blotting để phát hiện kháng thể kháng FIV, phân lập virus và phản ứng chuỗi polymerase (PCR) để phát hiện virus. Các xét nghiệm này có thể được coi là kiểm thử xác nhận (confirmatory tests) mặc dù một số phòng thí nghiệm sử dụng phương pháp miễn dịch huỳnh quang làm xét nghiệm đầu tiên, vì nó rất chính xác và phát hiện kháng thể đối với tất cả các protein của virus. Western blot là một xét nghiệm chính xác thứ hai, cho phép phát hiện các kháng thể đối với các protein virus riêng lẻ. Phân lập virus cũng rất chính xác nhưng bị giới hạn bởi những cân nhắc thực tế (chi phí, phương tiện và thời gian) và không phù hợp để sử dụng thường xuyên. [caption id="attachment_451" align="alignnone" width="602"] Xét nghiệm virus FIV[/caption] Các xét nghiệm PCR, phát hiện axit nucleic FIV (Vật liệu di truyền - tiếng Anh là Genetic Material - để chỉ các đại phân tử đóng vai trò lưu giữ và truyền thông tin di truyền qua các thế hệ tế bào, hoặc thế hệ cơ thể) hiện đang được sử dụng và có độ chính xác cao. Như được thảo luận dưới đây, PCR rất hữu ích trong chẩn đoán nhiễm trùng ở mèo con có thể có kháng thể có nguồn gốc từ mèo mẹ. Các vấn đề tương tự về độ chính xác và khả năng xảy ra lỗi áp dụng cho các bộ dụng cụ kiểm tra thực tế về kháng thể kháng FIV như đối với kháng nguyên FeLV. Cung cấp thử nghiệm đã được thực hiện chính xác với một vật mẫu để thí nghiệm và tính đặc hiệu của xét nghiệm rất cao, kết quả dương tính nói chung là đáng tin cậy. Tuy nhiên, chúng tôi khuyến nghị rằng kết quả dương tính trong xét nghiệm thực tế nên được xác nhận lại bằng một loại xét nghiệm khác, chẳng hạn như miễn dịch huỳnh quang hoặc western blotting, đặc biệt là trong trường hợp mèo khỏe mạnh. Bộ dụng cụ xét nghiệm trong thực tế yêu cầu mẫu máu và được thực hiện tốt nhất với huyết thanh hoặc huyết tương, thay vì máu bình thường. Như với tất cả các bộ dụng cụ xét nghiệm, có khả năng cho kết quả dương tính và âm tính giả. Ở những con mèo có nghi ngờ nhiễm trùng cao nhưng âm tính trên bộ dụng cụ kiểm tra thực tế, nên sử dụng một hệ thống xét nghiệm khác để xác nhận kết quả âm tính cũng rất được khuyến khích. (Giải thích Vật liệu di truyền - tiếng Anh là Genetic Material: https://vi.wikipedia.org/wiki/V%E1%BA%ADt_li%E1%BB%87u_di_truy%E1%BB%81n ) Dự đoán/tiên lượng cho mèo bị nhiễm virus FIVDự đoán cho mèo bị nhiễm virus FIV khó dự đoán hơn nhưng nhìn chung tốt hơn so với mèo bị nhiễm FeLV. Những con mèo được cho là nghiêm trọng, mãn tính, nhiều dấu hiệu bệnh tồi tệ. Nếu các dấu hiệu lâm sàng chỉ phát triển gần đây và không nghiêm trọng, có hy vọng rằng mèo có thể cải thiện bệnh với các phương pháp điều trị, và có thể được duy trì trong một thời gian. Điều trị thường bao gồm trị liệu hỗ trợ, thường là kháng sinh, có thể kết hợp với điều trị bằng thuốc kháng virus. Một tỷ lệ mèo dương tính với FIV không có dấu hiệu lâm sàng liên quan đến nhiễm trùng có thể vẫn khỏe mạnh trong một thời gian dài. Tiêm phòng virus FIV - Suy giảm miễn dịch ở mèoMột loại vắc-xin cho FIV đã được cấp phép tại Hoa Kỳ, nhưng tới thời điểm này hiệu quả của nó vẫn chưa được biết rõ. Vương Quốc Anh không cung cấp loại vắc xin nói trên. Loại vắc xin này khi tiêm vào cơ thể mèo sẽ sản sinh kháng thể ức chế virus kháng FIV, nên bằng biện pháp thông thường ta sẽ không phân biệt được giữa mèo bị nhiễm FIV và mèo được tiêm kháng thể. Các cá thể mèo còn khỏe mạnh khi đã bị nhiễm FIV nên được tiếp tục tiêm phòng, để chống các bệnh lây nhiễm khác. Các trường hợp xử lý nhiễm virus FIV cụ thể1. Thú nuôi[caption id="attachment_448" align="alignnone" width="605"] Mèo nuôi[/caption] Mèo nuôi trong nhà / ngoài trời Những con mèo nên được xét nghiệm FIV nếu chúng bị bệnh và có dấu hiệu tương thích với nhiễm trùng. Mèo bị nhiễm FIV gây rủi ro cho những con mèo khác và để ngăn chặn việc truyền virus, mèo bị nhiễm bệnh cần phải được cách ly với những con khác. Ngoài ra, cách ly mèo nhiễm virus FIV vẫn đang trong tình trạng khỏe mạnh trong nhà có thể có lợi trong việc bảo vệ mèo chống lại phơi nhiễm với các tác nhân truyền nhiễm khác của mèo, có thể gây bệnh nghiêm trọng hơn như suy giảm miễn dịch so với mèo bình thường. Trên cơ sở phúc lợi, sự cách ly có thể không được áp dụng đối với một số con mèo không chịu được việc ở yên trong nhà. Do đó, chủ nuôi phải cân nhắc rủi ro (với chính con mèo của họ và những con mèo khác) với ý nghĩa phúc lợi. Có thể có hàng rào trong vườn hoặc cung cấp một cuộc chỗ chơi nơi mèo có thể ra ngoài và không gây rủi ro cho bản thân hoặc những con mèo khác. Mèo hoàn toàn bị nhốt trong nhà Những con mèo bị nhốt trong nhà không có nguy cơ tiếp xúc với FIV. Tuy nhiên, vì có một khoảng thời gian dài giữa việc nhiễm trùng bệnh và phát bệnh, có khả năng một con mèo đã bị nhiễm trùng khi còn là một chú mèo con, mặc dù đã bị nuôi nhốt hoàn toàn cách ly với các con mèo khác từ khi còn nhỏ. 2. Gia đình nuôi nhiều mèoNhững cân nhắc tương tự về rủi ro có thể xảy ra với những con mèo ở gần nhau áp dụng cho những con mèo bị nhiễm bệnh từ các gia đình nuôi nhiều mèo cũng như từ các gia đình nuôi ít mèo. Vấn đề lây nhiễm có thể xảy ra trong một gia đình nuôi mèo cũng phải được giải quyết vì FIV dường như lây lan ngay cả trong số những con mèo không cho thấy sự tiếp xúc với nhau quá mức. Trong một gia đình đã xác định được một con mèo bị nhiễm virus FIV, việc xét nghiệm để xác định tình trạng của từng con mèo. Kết quả xét nghiệm có thể cho phép phân biệt mèo bị nhiễm và không bị nhiễm bệnh nếu điều này xảy ra trong các gia đình nuôi mèo. Một chương trình chăm sóc sức khỏe tổng quát tốt nên được duy trì có thể giúp giảm nhiễm trùng bệnh và lây lan bệnh. Xét nghiệm mèo trước khi đưa cá thể mới vào một hộ gia đình nuôi nhiều mèo nên được thực hiện để ngăn ngừa sự lây lan giữa các con mèo trong nhà. 3. Các trường hợp trạm cứu hộ, giải cứu[caption id="attachment_446" align="alignnone" width="622"] Cứu hộ mèo (Nguồn hình: Kênh 14)[/caption] Các xét nghiệm nào nên được thực hiện cho mèo ở các cơ sở cứu hộ? Trong một thế giới lý tưởng, tất cả những con mèo sẽ được kiểm tra FIV. Tuy nhiên, chi phí cho việc này sẽ rất cao. Tỷ lệ nhiễm FIV trong quần thể mèo nói chung là khoảng 3 - 6%. Tuy nhiên, điều này tăng theo tuổi và trong một số nhóm mèo 'có nguy cơ' nhất định. Tất cả các con mèo nằm trong nhớ có “nguy cơ” nên được kiểm tra FIV. Chúng bao gồm toàn bộ mèo đực, mèo bệnh, và mèo hoang. Những con mèo khó tính và hung dữ có thể được xét nghiệm và triệt sản cùng một lúc để lấy mẫu máu trong khi gây mê. Trách nhiệm / cân nhắc pháp lý cho các cơ sở cứu hộ là gì? Các cơ sở cứu hộ có nhiệm vụ chăm sóc và nên đảm nhận những gì hợp lý trong từng hoàn cảnh. Như đã nêu ở trên, có thể không có đủ nguồn lực tài chính để xét nghiệm cho mọi con mèo. Với bất kì con mèo nào khi chuẩn bị về nhà mới với chủ mới, thì bắt buộc phải thông báo cho người chủ mới mọi thông tin về con mèo đó, nó đã được xét nghiệm hay chưa? Kết quả xét nghiệm là gì? Những con mèo xét nghiệm dương tính với FIV nếu muốn về nhà mới thì người chủ nhận nuôi phải được thông báo đẩy đủ mọi thông tin và rủi ro về trường hợp của con mèo sắp nhận nuôi. Các quy định được đề xuất cho mèo con là gì? Có nhiều sự phức tạp trong việc xác định nhiễm virus FIV ở mèo con dựa trên xét nghiệm kháng thể vì mèo con từ nơi nhiễm FIV có thể đã có được kháng thể chống FIV nhưng có thể không bị nhiễm bệnh. Cũng có việc những chú mèo con được sinh ra từ mèo mẹ bị nhiễm bệnh cũng sẽ bị nhiễm bệnh từ mẹ của chúng. Nếu việc sàng lọc được thực hiện bằng xét nghiệm kháng thể, thì nên được hoãn lại cho đến 20 tuần tuổi, khi đó các kháng thể có nguồn gốc từ mẹ có thể sẽ không còn tồn tại. Nếu mèo con bị nhiễm bệnh, thì sau đó chúng nên có kháng thể của riêng nó (nghĩa là kết quả dương tính sẽ chỉ ra nhiễm trùng thực sự). Có ý kiến cho rằng mèo con dưới 20 tuần tuổi được xét nghiệm dương tính với FIV nên ở lại cơ sở cứu hộ và được xét nghiệm lại sau 20 tuần tuổi. Một cách khác là kiểm tra sự hiện diện của virus bằng cách sử dụng PCR hoặc phân lập virus. Điều này có thể được thực hiện ở mọi lứa tuổi. Với những con mèo dương tính với FIV thì nên xử lý như thế nào? Một con mèo dương tính với FIV với các biểu hiệu cho thấy tình trạng suy giảm miễn dịch nghiêm trọng nên suy cân nhắc tới việc trợ tử cho chúng. Nếu một con mèo dương tính với FIV có dấu hiệu lâm sàng nhỏ, nó sẽ được điều trị thích hợp và có thể phục hồi lâm sàng. Bất kỳ con mèo trưởng thành nào có kết quả dương tính với FIV và có vẻ khỏe mạnh đều có thể có tuổi thọ tốt và nên được xem xét để tìm nhà mới cho chúng (tất nhiên phải thông báo kĩ càng với người nhận nuôi). Tuy nhiên, theo quan điểm về những rủi ro đối với những con mèo khác, đây phải là một ngôi nhà không có mèo khác và chủ nuôi mới có thể đảm bảo rằng con mèo sẽ không đi ra ngoài. Có thể trong nhiều trường hợp, sẽ không tìm được chủ nuôi mới đáp ứng đủ các yêu cầu trên, vì vậy chúng ta có thể suy xét lại về việc trợ tử cho những con mèo này. 4. Mèo hoangMèo con hoang trong độ tuổi trưởng thành đủ điều kiện để tìm nhà mới cho chúng cần được tiến hành các xét nghiệm kiểm tra bệnh. Tất cả những con mèo hoang nên được kiểm tra và những con mèo dương tính với FIV thì nên cân nhắc tới việc trợ tử hơn là thả chúng về chỗ cũ. [caption id="attachment_447" align="alignnone" width="629"] Mèo hoang[/caption] 5. Nuôi / mua, bán mèoKhông bao giờ nên nhân giống mèo bị nhiễm virus FIV. Chủ nuôi và các nhà lai tạo mới nên đảm bảo rằng những con mèo mà họ dự định mua là hoàn toàn không nhiễm FIV. Hầu hết các nhà lai tạo kiểm tra FIV một cách thường xuyên và hầu hết những con mèo được nuôi để sinh sản đều được giữ trong nhà hoặc trong những nơi mà FIV không thể được truyền bệnh tới mèo. Để duy trì cho những con mèo nhà âm tính với FIV, tất cả mèo phải được kiểm tra xét nghiệm trước khi đưa vào nhà. Nguồn: Monspet.com Bài viết này trích dịch từ: http://www.thecatgroup.org.uk/policy_statements/fiv.html (Tổ chức phúc lợi mèo lớn nhất Anh Quốc) Xem thêm: https://www.reddit.com/user/monspet Coi thêm tại : Via https://monspet.com/virus-fiv/ |
MonspetỞ đây có thú cưng và nhiều hơn thế nữa - Monspet tự hào là địa chỉ cung cấp tất cả các thông tin về động vật, thú cưng uy tín và chính xác nhất. Website: https://monspet.com/ Archives
July 2021
Categories |