Virus gây bệnh leukemia – bệnh bạch cầu ở mèo (thường được gọi là bệnh FeLV hoặc bệnh bạch cầu ác tính) có thể gây ra một loạt các bệnh về khối u, trong đó nặng nhất là ung thư hạch, khối u rắn của tế bào lympho (một loại tế bào bạch cầu) và khối u phổ biến nhất của mèo. Ung thư hạch có thể có một số hình dạng tùy thuộc vào các mô liên quan. Ít phổ biến hơn, Tân sản (một sự phát triển mới) phát sinh trong tủy xương, gây ra bệnh bạch cầu thực sự hoặc rối loạn myeloproliferative (MPD) - là ung thư máu hiếm gặp có nhiều triệu chứng khác nhau, nhưng không có nguyên nhân rõ ràng. Tuy nhiên, không phải tất cả các trường hợp ung thư hạch hoặc bệnh bạch cầu ở mèo đều liên quan đến nhiễm bệnh FeLV - virus này chỉ là một nguyên nhân tiềm ẩn. Bài viết gốc: https://monspet.com/benh-felv/ Bệnh lâm sàng do nhiễm FeLV cũng có thể là do suy giảm miễn dịch và hình ảnh lâm sàng liên quan có thể rất giống với bệnh do virus gây suy giảm miễn dịch ở mèo (FIV) gây ra. Bệnh FeLV cũng gây bệnh theo những cách khác và có liên quan đến một loạt các hội chứng lâm sàng bao gồm thiếu máu, tình trạng thần kinh, viêm ruột xuất huyết và vô sinh. Bệnh FeLV lây lan như thế nào?FeLV không tồn tại trong thời gian dài bên ngoài cơ thể của mèo và việc truyền bệnh đòi hỏi phải tiếp xúc gần gũi giữa những con mèo. Sau khi tiếp xúc, bệnh FeLV có thể gây nhiễm trùng dai dẳng. Trong trạng thái này, virus liên tục hiện diện trong máu (viraemia – hay còn gọi là Virus-huyết, thuật ngữ mô tả sự hiện diện của virus trong máu) và được bài tiết trong tất cả các chất tiết cơ thể, trong đó quan trọng nhất là nước bọt. Sự lây truyền thường liên quan đến phơi nhiễm kéo dài thông qua tiếp xúc gần gũi, kéo dài với một con mèo bị nhiễm bệnh và được cho là hệ quả thường xuyên do sự liếm/chải lông lẫn nhau giữa các con mèo, dẫn đến sự xâm nhập của virus. [caption id="attachment_434" align="alignnone" width="601"] Virus Felv[/caption] Mèo bị nhiễm bệnh FeLV thường vô sinh nhưng nếu mèo cái bị nhiễm bệnh có thể sinh sản, mèo con rất có khả năng bị nhiễm virus khi sinh. Mèo con cũng có thể bị nhiễm virus từ việc bú sữa bị nhiễm virus từ mèo mẹ. Động vật trở nên chống nhiễm khuẩn nhiều hơn theo tuổi tác, do đó, mèo trưởng thành ít có khả năng bị nhiễm bệnh hơn so với mèo con. Những con mèo tiếp xúc với virus và sau đó khỏi bệnh sẽ có hệ miễn dịch vững chắc và chống lại việc nhiễm bệnh sau này. Sự truyền nhiễm bệnh FeLV phổ biến như thế nào và các yếu tố nguy cơ là gì?Tỷ lệ nhiễm FeLV khác nhau ở các nhóm mèo khác nhau. Lối sống của mèo sống trong các nhóm đông hoặc hộ gia đình, đặc biệt là các “trại mèo” – nhận nuôi, giữ mèo cho chủ khi đi vắng hoặc nuôi nhốt để bán, đặc biệt thuận lợi cho sự lây lan của FeLV. Tuy nhiên, virus đã được loại bỏ khỏi hầu hết các trại mèo nhân giống phả hệ bằng cách sử dụng một hệ thống kiểm tra và cách ly để việc lây nhiễm là không khả thi tại các nơi này. [caption id="attachment_433" align="alignnone" width="605"] Trại nuôi nhốt mèo chung có nguy cơ lây nhiễm FeLv[/caption] Một tỷ lệ thấp, thường là ít hơn 1%, được tìm thấy khi thử nghiệm trên các con mèo khỏe mạnh. Các khảo sát về mèo bị bệnh, trong đó FeLV được ghi nhận có mức độ phổ biến và tỷ lệ nhiễm bệnh lên tới 18%. Mặc dù những kết quả này có thể nói quá lên việc FeLV là nguyên nhân chính gây bệnh, nhưng chúng cũng chỉ ra rằng FeLV là một trong những nguyên nhân quan trọng gây ra bệnh. Vì những con mèo lớn tuổi được ghi nhận là ít bị nhiễm bệnh hơn so với mèo con, nên có một quan niệm sai lầm rằng mèo lớn sẽ không bị nhiễm bệnh. Tuy nhiên sự thật là rõ ràng những con mèo lớn vẫn có thể bị nhiễm bệnh. Kết quả khảo sát về sự phổ biến của FeLV ở những con mèo hay thả rông hay mèo hoang đã trái ngược nhau. Trong một số khảo sát, tỷ lệ nhiễm bệnh cao đã được tìm thấy ở những con mèo này, trong khi ở những kết quả khác lại chỉ có một tỷ lệ nhỏ mèo bị nhiễm bệnh được xác định. Vì vậy, sự khác biệt về địa lý có thể nguyên nhân để giải thích về sự khác nhau này. Nhiễm bệnh FeLV sẽ gây ra điều gì?Những con mèo bị nhiễm FeLV thường có tuổi thọ ngắn và khoảng 90% sẽ chết trong vòng bốn năm sau khi bị nhiễm bệnh. Thông thường, những con mèo được xét nghiệm và phát hiện dương tính đã bị nhiễm bệnh trong một thời gian và có thể có tuổi thọ thậm chí còn ngắn hơn. Tuy nhiên, một tỷ lệ nhỏ mèo bị nhiễm bệnh có thể sống trong thời gian dài hơn. Tuy vậy cũng không có xét nghiệm tiên lượng nào có thể dự đoán một con mèo bị nhiễm bệnh sẽ sống được trong bao lâu. Xét nghiệm FeLVNhiễm FeLV dẫn đến sự hiện diện liên tục trong máu của virus truyền nhiễm, kháng nguyên virus hòa tan và kháng nguyên tế bào bạch cầu. Chúng có thể được phát hiện bởi nhiều hệ thống xét nghiệm bao gồm các bộ xét nghiệm được thiết kế để sử dụng trong thực hành thú y cũng như các xét nghiệm được sử dụng trong các phòng thí nghiệm chuyên khoa. Các xét nghiệm về FeLV phát hiện kháng nguyên p27 của virus, protein lõi của virus và dựa trên các xét nghiệm hấp thụ miễn dịch liên kết enzyme (ELISA) - hoặc công nghệ sắc ký miễn dịch (IC) (Link tham khảo ELISA: https://vi.wikipedia.org/wiki/ELISA) (Link tham khảo IC: http://biomedia.vn/review/sac-ky-ion-nhung-diem-can-luu-y-khi-lua-chon.html) Các xét nghiệm kết hợp cho phép thử nghiệm đồng thời cho cả FeLV và FIV vì cả hai loại virus này có thể gây ra các dấu hiệu lâm sàng tương tự nhau. Có sự đồng nhất giữa kết quả phát hiện kháng nguyên thu được bằng cách sử dụng các hệ thống khác nhau này. Không giống như các xét nghiệm FIV, xét nghiệm FeLV không bị ảnh hưởng bởi các kháng thể có nguồn gốc từ mẹ, vì vậy chúng có thể được sử dụng cho mọi con mèo ở mọi lứa tuổi. Nhiều phòng thí nghiệm thương mại cũng cung cấp các xét nghiệm cho FeLV. Một số thực hiện xét nghiệm ELISAs hoặc IC, trong khi các phòng thí nghiệm chuyên ngành khác cung cấp các kiểm thử xác nhận (confirmatory test) bao gồm “phân lập virus” - sử dụng các dòng tế bào đặc trưng để làm tăng số lượng virus từ các mẫu mô thông qua quá trình gây nhiễm và nhân lên (https://www.prrs.com/vi/prrs/diagnostics/visurs-pcr/), phản ứng miễn dịch huỳnh quang và phản ứng chuỗi polymerase (PCR). Phân lập virus phát hiện virus truyền nhiễm trong huyết tương trong khi miễn dịch huỳnh quang cho thấy kháng nguyên virus (protein) trong các tế bào bạch cầu. Một trong hai phương pháp này thường được coi là thử nghiệm cuối cùng (tiêu chuẩn vàng) đối với FeLV và có sự đồng nhất rất tốt giữa kết quả của hai phương pháp. Phản ứng chuỗi polymerase (PCR) không được dử dụng rộng rãi. Xét nghiệm này phát hiện DNA đặc hiệu FeLV trong các tế bào bạch cầu. Một vấn đề là mặc dù nó xác định được mèo nhiễm virus, PCR cũng phát hiện DNA còn sót lại ở một số con mèo đã hồi phục sau khi nhiễm FeLV và sẽ tiếp tục hoàn toàn khỏe mạnh. Trước khi PCR có thể được sử dụng thường xuyên để chẩn đoán FeLV, cần nghiên cứu thêm để làm rõ cách giải thích kết quả. [caption id="attachment_436" align="alignnone" width="612"] Xét nghiệm mèo có bị nhiễm FeLv hay không?[/caption] Có hai vấn đề quan tâm chính liên quan đến kết quả xét nghiệm thực tế đối với FeLV. Thứ nhất, trong khi các xét nghiệm này nhanh chóng và đơn giản để thực hiện, chúng có thể dẫn đến kết quả sai. Điều rất quan trọng là tránh các lỗi kỹ thuật bằng cách tuân thủ chặt chẽ các hướng dẫn của nhà sản xuất. Hầu hết các xét nghiệm thực hành đều yêu cầu lấy mẫu máu và được thực hiện tốt nhất bằng huyết thanh hoặc huyết tương, thay vì máu bình thường. Các xét nghiệm được thiết kế để sử dụng mẫu nước bọt, được thu thập bằng cách sử dụng gạc miệng, cách này cũng hay được sử dụng, nhưng ít chính xác hơn so với xét nghiệm máu và thường không được khuyến khích sử dụng. Vấn đề thứ hai là ngay cả với các xét nghiệm rất chính xác, khi nhiễm trùng có tỷ lệ lưu hành thấp (như với bệnh FeLV ở mèo khỏe mạnh), sẽ thu được một số lượng đáng kể kết quả dương tính không chính xác. Do đó, người ta đồng ý rằng một kết quả dương tính duy nhất ở một con mèo khỏe mạnh không nên được coi là biểu hiện của việc nhiễm bệnh và cần được xác nhận bằng một xét nghiệm chuyên biệt hơn như phân loại virus hoặc miễn dịch huỳnh quang. Trong khi tình trạng của những con mèo như vậy đang được chuẩn đoán, chúng nên được duy trì cách ly để tránh mọi nguy cơ có thể lây sang những con mèo khác. Một tỷ lệ nhỏ mèo khỏe mạnh xét nghiệm dương tính với kháng nguyên (là phân tử kích thích đáp ứng miễn dịch của cơ thể, đặc biệt là sản xuất kháng thể. Thông thường kháng nguyên là một protein hay một polysaccharide, nhưng nó cũng có thể là bất cứ loại phân tử nào, mang các phân tử hapten nhỏ và gắn với một protein chuyên chở - (https://vi.wikipedia.org/wiki/Kháng_nguyên) nhưng âm tính do phân lập virus hoặc miễn dịch huỳnh quang có thể tiếp tục ở trạng thái này trong một thời gian dài. Những con mèo “trái ngược” này rất có thể có trọng tâm nhiễm trùng ở đâu đó trong cơ thể nơi có thể giải phóng kháng nguyên, nhưng không phải virus, mà là vào máu. Mặc dù những con mèo này không có khả năng truyền virus, nhưng nếu chúng tiếp xúc với những con mèo khác, chúng nên được kiểm tra lại để đảm bảo không bị nhiễm virus. Kết quả xét nghiệm âm tính trong thực tế đối với bệnh FeLV thường được coi là đáng tin cậy hơn với điều kiện xét nghiệm đã được thực hiện cẩn thận. Tuy nhiên, nếu nghi ngờ nhiễm bệnh FeLV ở một con mèo bị bệnh đã có xét nghiệm âm tính trong việc xét nghiệm thực tế, kết quả này cũng cần được xác nhận bằng cách phân lập virus hoặc miễn dịch huỳnh quang. Những con mèo đã hồi phục sau khi bị nhiễm bệnh và miễn dịch thường sẽ có kháng thể trung hòa virus, có thể được phát hiện tại các phòng thí nghiệm chuyên khoa. Thử nghiệm này có thể hữu ích khi quyết định cách ly mèo trong một gia đình nuôi nhiều mèo đã được chuẩn đoán là nhiễm FeLV trước đó. Chuẩn đoán cho mèo bị nhiễm bệnhNhững con mèo dương tính với FeLV nên được xem xét riêng biệt tùy theo hoàn cảnh của chúng; Việc phải làm gì với những mèo bị nhiễm bệnh đòi hỏi phải được thảo luận cẩn thận giữa bác sĩ phẫu thuật thú y và chủ nuôi. Trường hợp mèo yếu và dương tính với FeLVMèo bị nhiễm bệnh có thể được điều trị triệu chứng và bằng hóa trị liệu nếu chúng bị ung thư hạch. Tuy nhiên, việc trợ tử phải được xem xét một cách nghiêm túc vì những con mèo bị nhiễm bệnh thường có tuổi thọ ngắn và trong khoảng thời gian còn lại của chúng có thể chúng sẽ không có được 1 cuộc sống thoải mái. Trường hợp mèo khỏe nhưng dương tính với bệnh FeLVNhững con mèo này có thể tiếp tục sống khỏe mạnh trong một khoảng thời gian đáng kể, nhưng đại đa số sẽ có tuổi thọ được rút ngắn rất nhiều (vài tháng hoặc vài năm). Chúng nên được chăm sóc giống như một con mèo không bị nhiễm bệnh, nhưng cũng nên được bảo vệ khỏi những con mèo mắc các bệnh truyền nhiễm khác và không nên để mèo bị căng thẳng. Vì mèo dương tính với FeLV có thể bài tiết virus, nên những con mèo này không được phép tiếp xúc với những con mèo khác đề phòng lây nhiễm virus sang những con mèo khác. Tiêm phòng bệnh FeLV[caption id="attachment_432" align="alignnone" width="600"] Tiêm phòng ngừa virus Felv[/caption] Một số loại vắc-xin khác nhau có sẵn cho việc chữa FeLV. Các loại vắc-xin đang hiện hành ở Anh cung cấp sự bảo vệ tốt chống lại nhiễm trùng tự nhiên, nhưng cũng như các loại vắc-xin khác, không thể tin cậy quá mức về việc vắc-xin sẽ có hiệu quả 100%. Do đó, không nên chủ quan việc 1 con mèo đã được tiêm phòng sẽ không thể bị nhiễm FeLV nữa. Nên tránh tiếp xúc gần gũi với các con mèo đang bị nhiễm FeLV hoặc nghi ngờ nhiễm FeLV để đề phòng trường hợp bị lây nhiễm virus. Những lưu ý cụ thể1. Nhà nuôi 1 con mèoMèo trong nhà và ngoài trời Những con mèo nên được kiểm tra nếu chúng bị bệnh và có dấu hiệu tương thích với nhiễm FeLV. Một con mèo cưng bị nhiễm FeLV gây ra mối đe dọa cho những con mèo khác. Việc tiếp xúc gần gũi là một yếu tố rủi ro quan trọng đối với việc truyền nhiễm FeLV, nhưng khả năng lây lan qua vết cắn cũng phải được xem xét. Để ngăn chặn truyền virus cho những con mèo khác, mèo bị bệnh cần phải được giữ trong nhà. Trên cơ sở phúc lợi, điều này có thể không áp dụng được đối với một số con mèo không chịu được việc bị nhốt mãi ở trong nhà. Chủ nuôi phải cân nhắc rủi ro (với chính con mèo của họ và những con mèo khác ở các nhà bên cạnh) với ý nghĩa phúc lợi. Có thể lắp hàng rào trong vườn hoặc tạo nơi 1 chỗ chơi nơi mèo có thể ra ngoài và không tạo rủi ro cho bản thân chú mèo hoặc những con mèo khác. [caption id="attachment_431" align="alignnone" width="596"] Mèo nuôi trong nhà và ngoài trời[/caption] Mèo nuôi nhốt trong nhà Những con mèo bị nuôi nhốt kín trong nhà thường không có khả năng lây nhiễm FeLV. Tuy nhiên, ở đây thường có một quá trình kéo dài giữa thời gian đầu nhiễm virus và thời gian phát bệnh. Mèo có thể bị nhiễm bệnh từ trước khi bị nuôi nhốt, ví dụ như bị lây nhiễm từ mèo mẹ. Do đó, những con mèo lớn có thể chết do nhiễm FeLV, mặc dù chúng hầu như hòan toàn bị cách ly với các con mèo khác từ nhỏ. 2. Nhà nuôi nhiều mèoNhững cân nhắc tương tự về những rủi ro có thể xảy ra khi lây bệnh từ những nhà chỉ nuôi ít mèo cũng nên được áp dụng cho các nhà nuôi nhiều mèo. Đây là một mối quan tâm đặc biệt với FeLV, dễ dàng lây truyền virus trong một gia đình nuôi nhiều mèo. Nếu một con mèo được nuôi trong nhà được xác định là bị nhiễm FeLV, thì tất cả những con mèo khác trong nhà nên được xét nghiệm và phân loại những con mèo dương tính và âm tính với bệnh để tránh lây nhiễm thêm. Mèo nên được kiểm tra lại 12 tuần sau đó để xác định xem có những con mèo nào đã khỏi bệnh và những con mèo nào vừa bị nhiễm bệnh, sau đó trở nên dương tính với bệnh. Nên xét nghiệm mèo trước khi đưa mèo mới về ở chung với các con mèo khác trong nhà phải được thực hiện để tránh sự lây lan sang những con mèo khác. 3. Các tổ chức giải cứu, cứu hộ mèoNhững quy tắc xét nghiệm nào nên được áp dụng cho các con mèo tới các cơ sở cứu hộ? Lý tưởng nhất là tất cả các con mèo nên được kiểm tra để biết tình trạng FeLV của chúng. Tuy nhiên, vì điều này là không khả thi về mặt kinh tế, hầu hết các tổ chức cứu hộ đã áp dụng phương pháp xét nghiệm mèo được coi là có nguy cơ cao bị nhiễm bệnh. Chúng bao gồm mèo bệnh, mèo đi lạc và mèo hoang. Nếu bất kỳ kết quả nào dương tính, tất cả những con mèo mà chúng đã tiếp xúc cũng nên được kiểm tra. Mèo đang mang thai nên được kiểm tra kỹ lưỡng vì tất cả các mèo con đều có khả năng sẽ bị nhiễm virus từ mèo mẹ. [caption id="attachment_430" align="alignnone" width="599"] Lưu ý cho các tổ chức cứu hộ mèo[/caption] Trách nhiệm / cân nhắc pháp lý cho các cơ sở cứu hộ là gì? Các cơ sở cứu hộ có nhiệm vụ chăm sóc và nên đảm nhận những gì hợp lý trong hoàn cảnh. Như đã nêu ở trên, các cơ sở cứu hộ có thể không đủ khả năng tài chính để xét nghiệm mọi con mèo, nhưng không có con mèo nào đã được xét nghiệm là dương tính với FeLV được đưa về nhà mới cùng với chủ mà không được thông báo đầy đủ về các rủi ro. Các hình thức xét nghiệm được đề xuất cho mèo trưởng thành và mèo con là gì? Nếu một con mèo khỏe mạnh được kiểm tra có kháng nguyên âm tính trong các xét nghiệm, có khả năng cao là nó thực sự âm tính. Nếu một con mèo bị bệnh xét nghiệm dương tính với kháng nguyên, nó rất có khả năng bị nhiễm bệnh. Nếu một con mèo khỏe mạnh kiểm tra kháng nguyên dương tính, sau đó kiểm tra lại bằng cách sử dụng một kiểm thử xác nhận (confirmatory test) như miễn dịch huỳnh quang hoặc phân lập virus. Nếu dương tính trong xét nghiệm này, con mèo gần như chắc chắn bị nhiễm bệnh. Nếu một con mèo khỏe mạnh kiểm tra kháng nguyên dương tính nhưng âm tính trong kiểm thử xác nhận, hãy kiểm tra lại sau 12 tuần để xác nhận rằng nó vẫn âm tính với virus. (Tùy trường hợp, các nhân viên cứu hộ có thể không duy trì được mèo trong thời gian này, trong trường hợp đó, chủ nuôi tương lai được khuyên nên xét nghiệm lại với những con mèo này). Nên làm gì với mèo dương tính với FeLV? Hai sự thật cần được xem xét: những con mèo có kết quả xét nghiệm dương tính có khả năng có tuổi thọ ngắn hơn nhiều so với những con mèo không bị nhiễm bệnh; và virus huyết trong mèo có thể truyền virus gây bệnh cho những con mèo khác khi tiếp xúc. Vì những lý do này, rất khó để các nhân viên cứu hộ có thể tìm nhà mới cho một con mèo dương tính với FeLV. Những con mèo bị bệnh mà xét nghiệm dương tính bằng cách phân lập virus hoặc miễn dịch huỳnh quang, chúng ta có thể cân nhắc tới việc trợ tử cho chúng. Những con mèo khỏe mạnh có thể được phục hồi trong những điều kiện nhất định: chúng không nên được đưa vào một ngôi nhà mà chúng sẽ tiếp xúc với những con mèo không bị nhiễm FeLV; và không nên được phép tự do đi lang thang bên ngoài. Nếu những điều kiện này không thể được đáp ứng, và không thể nuôi những con mèo này một cách tốt nhất trong các cơ sở cứu hộ một thời gian dài, chúng ta cũng nên suy nghĩ tới việc trợ tử. 4. Mèo hoangMèo con hoang trong độ tuổi trưởng thành đủ điều kiện để tìm nhà mới cho chúng cần được tiến hành các xét nghiệm kiểm tra bệnh. Tất cả những con mèo hoang nên được kiểm tra và những con mèo dương tính với FeLV thì nên cân nhắc tới việc trợ tử hơn là thả chúng về chỗ cũ. 5. Nuôi / mua, bán mèoKhông bao giờ nên nhân giống mèo bị nhiễm FeLV. Chủ nuôi và các nhà lai tạo mới nên đảm bảo rằng những con mèo mà họ dự định mua là hoàn toàn không nhiễm FeLV. Hầu hết các nhà lai tạo kiểm tra FeLV một cách thường xuyên và hầu hết những con mèo được nuôi để sinh sản đều được giữ trong nhà hoặc trong những nơi mà FeLV không thể được truyền bệnh tới mèo. Để duy trì cho những con mèo nhà âm tính với FeLV, tất cả mèo phải được kiểm tra xét nghiệm trước khi đưa vào nhà. Lưu ý từ Monspet: Nội dung của bài viết trên được Monspet dịch từ báo nước ngoài và việc trợ tử nhân đạo cho các bé mèo tùy thuộc vào hoàn cảnh, tình trạng và suy nghĩ của người nuôi. Theo quan điểm cá nhân của Monspet thì bệnh “không chữa trị được hay rất khó chữa trị” chúng ta cũng không nên nghĩ đến chuyện trợ tử. “Không chữa được” nhưng nếu bệnh không gây đau đớn gì cho mèo và mèo vẫn ăn uống sống bình thường thì tại sao chúng ta lại trợ tử cho chúng? Trợ tử chỉ nên được cân nhắc khi con vật mắc bệnh không chữa trị được hay rất khó chữa trị và ĐANG PHẢI CHỊU NHIỀU ĐAU ĐỚN. Trợ tử là giúp con vật thoát khỏi sự đau đớn chứ không phải giải thoát mình khỏi một vài khó khăn nào đó. Độc giả nên cân nhắc kĩ trước khi quyết định trợ tử nhân đạo cho bất kì một con vật nào. Nguồn: Monspet.com Bài viết này được trích dịch từ nguồn: http://www.thecatgroup.org.uk/policy_statements/felv.html (Tổ chức phúc lợi mèo uy tín tại Anh) Xem thêm: https://twitter.com/MonsPetblog Coi thêm ở : Via https://monspet.com/benh-felv/
0 Comments
Mèo là động vật hoàn hảo và chăm chỉ trong việc giữ cho bộ lông của chúng luôn sáng bóng và sạch sẽ. Mèo làm sạch lông của chúng bằng cách liếm lông bằng lưỡi, trong quá trình đó, chúng đã vô tình nuốt luôn lông của chính mình. Những sợi lông này sẽ dần tích tụ lại thành búi lông lớn và sẽ không thể tiêu hóa được. Nếu nó không đi qua đường tiêu hóa của mèo, những sợi lông có thể hình thành những búi lông. Bài viết gốc: https://monspet.com/bui-long-meo-hairball/ Việc hình thành các búi lông là điều bình thường với loài mèo. Thỉnh thoảng mèo sẽ ói hoặc nhổ các búi lông đó ra ngoài. Nhưng đôi khi, những cục lông đó không được bài tiết có thể gây nguy hiểm cho sức khỏe đường ruột của mèo. Vì vậy, bạn hãy đọc một số các biện pháp hữu hiệu tốt nhất dưới đây, để có thêm được các biện pháp điều trị Búi lông cho mèo ngay tại nhà, giúp cho đường tiêu hóa của mèo được hoạt động một cách trơn tru. Đầu tiên, Búi lông (hay còn gọi là hairball) ở mèo là gì?Hairball là những búi lông thường có hình dạng to tròn được hình thành trong đường tiêu hóa của mèo sau những lần chải chuốt, liếm lông. Bác sĩ thú y gọi hiện tượng này là Bệnh Hairball - việc ăn, nuốt các lông, tóc. Lưỡi của mèo có các đặc điểm giống như lưỡi câu làm rụng lông, tóc. Khi mèo của bạn nuốt những sợi lông đó vào bụng, lông sẽ đi đến dạ dày và không được tiêu hóa. Hầu hết các búi lông ở trong đường tiêu hóa của mèo đều không gây ra các vấn đề gì. Đối với những búi lông không được bài tiết qua phân, mèo sẽ nôn chúng ra. Và mặc dù có tên là Hairball (có hình tròn) nhưng thông thường những búi lông sẽ có hình thon dài khi mèo nôn chúng ra qua đường thực quản. [caption id="attachment_418" align="alignnone" width="633"] Hình minh họa - Hairball[/caption] Những giống mèo nào sẽ có nhiều khả năng bị búi lông?Tất cả các con mèo đều có khả năng phát triển búi lông tại một số điểm trong cuộc sống của chúng. Có một số loại mèo có nhiều khả năng bị bệnh Hairball nhiều hơn những loại khác. Những giống mèo lông dài thường xuyên rụng lông nên chúng sẽ loại bỏ những lông rụng đó thường xuyên hơn. Ngoài ra, những chú mèo thường xuyên liếm lông “chải chuốt” cũng sẽ dễ bị bệnh này hơn. [caption id="attachment_422" align="alignnone" width="610"] Mèo lông dài dễ bị bệnh này hơn[/caption] Những chú mèo già cũng thường xuyên nôn ra nhiều búi lông hơn. Lý do là khi mèo lớn tuổi, chúng sẽ thường hay liếm lông hơn, và do đó sẽ có nhiều lý do hơn để tăng việc nôn ra lông của chúng. Các biểu hiện của Búi lông mèoCác bé mèo của bạn có thể có các biểu hiện của các triệu chứng sau nếu chúng gặp vấn đề với búi lông của mình.
Các bé mèo của bạn sẽ chậm chạp, ốm yếu và không hứng thú với các hoạt động bình thường của chúng.
Khi mèo cố gắng nôn ra cái gì đó, nhưng chúng không thể ói ra khỏi miệng. Bạn hãy thử một trong những phương pháp trị liệu búi lông tại nhà dưới đây để xem liệu nó có thể giúp loại bỏ vật đó ra không. Nếu điều này không làm việc, hãy đến gặp bác sĩ thú y. [caption id="attachment_421" align="alignnone" width="600"] Mèo cố gắng nôn búi lông[/caption]
Mèo của bạn bỏ ăn? Đây là một dấu hiệu cho thấy thú cưng của bạn cảm thấy không khỏe. Một búi lông có thể gây ra tắc nghẽn đường tiêu hóa. Nếu mèo của bạn không cải thiện sau khi khắc phục tại nhà, hãy đưa chúng đi khám bác sĩ thú y ngay lập tức.
Nếu mèo phát triển một búi lông lớn trong đường tiêu hóa, nó sẽ gặp khó khăn trong việc bài tiết chất thải. Thú cưng của bạn có thể bị tiêu chảy hoặc táo bón thường xuyên. Nếu điều này xảy ra, hãy sắp xếp một cuộc hẹn với bác sĩ thú y.
Dạ dày của mèo sẽ sưng lên nếu có vật thể lạ trong bụng. Đây là một dấu hiệu rõ ràng để đến gặp bác sĩ thú y. Điều trị cho mèo tại nhàĐôi khi một vài điều trị đơn giản mà bạn có thể tự thực hiện là tất cả những gì mèo con của bạn cần để cảm thấy tốt hơn. Dưới đây là một vài kỹ thuật:
Một chút dầu hoặc bơ sẽ bôi trơn hệ thống đường ruột và giúp trục xuất những sợi lông.
Những phương pháp điều trị này bôi trơn phân mèo và lông của chúng. Nó cũng có thể giúp điều chỉnh đường tiêu hóa của mèo. [caption id="attachment_420" align="alignnone" width="618"] Gel trị búi lông mèo[/caption]
Có những món ăn được thiết kế đặc biệt có thể giúp bé mèo của bạn thoát khỏi những búi lông cứng đầu. Lựa chọn phẫu thuậtNếu búi lông gây cho mèo sự tắc nghẽn nguy hiểm trong đường ruột, bạn sẽ phải lựa chọn sử dụng phẫu thuật. Hãy chắc chắn liên hệ với bác sĩ thú y của bạn ngay khi bạn nghĩ rằng có điều gì đó không ổn, để bé mèo của bạn có cơ hội thành công cao hơn. Làm thế nào để ngăn ngừa Hairballs
Thường xuyên chải lông cho mèo nhà bạn. Nếu lông của chúng mỏng và ít rụng hơn. Mèo sẽ ít liếm và nuốt lông lại. [caption id="attachment_419" align="alignnone" width="599"] Lược chải lông mèo[/caption] Link mua lược chải lông mèo Sendo Link mua lược chải lông mèo Shopee
Hãy chắc rằng chú mèo của bạn uống đủ nước để dự trữ nước trong đường ruột. Điều này sẽ giữ cho việc tiêu hóa trở nên dễ dàng và mượt mà hơn.
Mèo là động vật ăn thịt. Cơ thể của chúng không được thiết kế để tiêu thụ thực phẩm giàu carbohydrate (tinh bột). Hãy cung cấp cho mèo của bạn một chế độ ăn giàu protein, ít carbohydrate, không có ngũ cốc. Dinh dưỡng kém sẽ gây ra các vấn đề về tiêu hóa và tăng khả năng bị búi lông.
Cho mèo ăn các thực phẩm bổ sung cho đường tiêu hóa. Có một số công thức có chứa hạt mã đề - psyllium (giúp hấp thụ nước và trở thành một hợp chất nhầy có lợi cho tiêu chảy). Nó sẽ giúp mèo tiêu hóa búi lông thay vì nôn ra chúng.
Việc này có thể cung cấp thêm chất xơ cho mèo của bạn, giúp chúng nôn ra hairball. Nguồn: Mon ‘s Pet Bài viết này được trích dịch từ: https://www.southbostonanimalhospital.com/blog/how-to-prevent-and-treat-hairballs-for-your-cat (Bệnh viện thú y lớn, có tiếng tại thành phố Boston - Mỹ) Xem thêm: https://monspetweb.blogspot.com/ Coi thêm tại : Via https://monspet.com/bui-long-meo-hairball/ Bệnh mèo cào - Cat scratch disease (gọi tắt là CSD) lần đầu tiên được xác định là bệnh ở người vào năm 1931 và thuật ngữ 'bệnh mèo cào' được áp dụng vào năm 1950. Đây là một bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn gây ra trên khắp thế giới và phổ biến nhất ở những người trẻ tuổi (hơn 80% các trường hợp xảy ra ở những người dưới 21 tuổi, với tỷ lệ mắc cao nhất ở trẻ em từ 3 đến 12 tuổi). Bệnh có phần phổ biến hơn ở nam giới (60%) so với phụ nữ và mặc dù đôi khi các bệnh này đã được báo cáo, thông thường chỉ có một cá nhân trong gia đình bị ảnh hưởng. Tại Hoa Kỳ, căn bệnh này có tỷ lệ mắc hàng năm ước tính khoảng 2 đến 10 trường hợp trên 100.000 người. Bài viết gốc: https://monspet.com/benh-meo-cao/ “Bệnh mèo cào” ở ngườiTrong hầu hết các trường hợp mắc CSD, bệnh nhân gần đây có tiền sử bị mèo cào hoặc cắn, hoặc tiếp xúc gần gũi với mèo, do đó có tên Bệnh mèo cào - CSD. Bệnh ở người thường lành tính và tự giới hạn. Nó có thể bắt đầu như một mụn nhỏ trên da hoặc mụn mủ (tại vị trí gây truyền nhiễm - thường gặp nhất là vết xước của mèo), và có thể vỡ ra trước khi lành sau khoảng ba tuần. Một vài tuần sau đó, sưng hạch bạch huyết cục bộ sẽ xảy ra 2 trường hợp: đau nhức hoặc không đau nhức, và trong phần lớn các trường hợp (85%), điều này được giới hạn ở một hạch bạch huyết duy nhất (thường ở nách - hoặc cổ). Sưng hạch bạch huyết có thể tồn tại trong vài tuần hoặc vài tháng. Trong hầu hết các trường hợp thường không có dấu hiệu phát triển thêm và vết sưng sẽ tự khỏi. Đôi khi các hạch bạch huyết bị ảnh hưởng tạo thành nhọt, mủ. Các dấu hiệu khác phát triển ở một số bệnh nhân - thường gặp nhất là sốt nhẹ và khó chịu. Đau cơ, đau đầu, ăn không ngon và buồn nôn được nhìn thấy ở một số bệnh nhân. [caption id="attachment_407" align="alignnone" width="617"] Dấu hiệu bệnh[/caption] Trong tối đa 10 đến 15% các trường hợp, các dấu hiệu bệnh không điển hình phát triển bao gồm viêm kết mạc mãn tính (được cho là do sự xâm nhập của sinh vật gần mắt) và đôi khi có sự liên quan của phổi, xương, gan và các cơ quan khác. Sự tham gia của hệ thống thần kinh trung ương được báo cáo nằm trong khoảng 2% các trường hợp và dấu hiệu bao gồm mê sảng, đau đầu, co giật và trầm cảm. Những dấu hiệu này (cùng với phần lớn các biểu hiện không điển hình của nhiễm trùng) thường được giải quyết nhanh chóng mà không gây ra bất kỳ thiệt hại vĩnh viễn nào. Biến chứng bệnh nghiêm trọng hơn có nhiều khả năng xảy ra ở những người bị ức chế miễn dịch. Ngược lại, cũng có bằng chứng cho thấy một số người có thể bị nhiễm vi khuẩn CSD – Bệnh mèo cào, nhưng không xuất hiện bất kỳ ca bệnh lâm sàng nào về bệnh. Một dạng bệnh bất thường gây ra bởi cùng một sinh vật gây ra bệnh mèo cào được gọi là “bacillary angiomatosis - Viêm mạch vành (BA) là một dạng bệnh lý mạch máu liên quan đến vi khuẩn thuộc chi Bartonella”. Bệnh này được thấy phổ biến nhất ở những người bị suy giảm sức đề kháng (ví dụ: bệnh nhân AIDS) và được đặc trưng bởi các tổn thương liên quan đến sự tăng trưởng quá mức của các mạch máu trên da và / hoặc các nơi khác trong cơ thể. Sinh vật gây bệnh là gì?Trong nhiều năm, sinh vật gây ra bệnh mèo cào - CSD tỏ ra khó nắm bắt. Vi khuẩn nhỏ này có thể được nhìn thấy trong các sinh thiết hạch bạch huyết từ bệnh nhân mắc CSD, nhưng không có sinh vật nào có thể được phát triển trong phòng thí nghiệm. Mặc dù một số sinh vật khác nhau được đề xuất là nguyên nhân có thể gây ra CSD, nhưng hiện nay người ta biết rằng phần lớn là do nhiễm vi khuẩn có tên Bartonella henselae - vi khuẩn gây bệnh mèo cào. Sinh vật này được cho là chiếm khoảng 90% các trường hợp mắc bệnh mèo cào, phần còn lại là do vi khuẩn có liên quan chặt chẽ trong “chi Bartonella”. Lý do phải mất quá nhiều thời gian để xác định đây là nguyên nhân của CSD, là do vi khuẩn có những yêu cầu rất cụ thể đối với sự phát triển trong phòng thí nghiệm và chậm phát triển. [caption id="attachment_410" align="alignnone" width="620"] Vi khuẩn Bartonella Henselae[/caption] **Sinh thiết (Biopsy) là thủ thuật lấy một mẫu mô nhỏ từ một phần của cơ thể. Các mẫu mô sau đó được khảo sát dưới kính hiển vi để tìm tế bào bất thường. Đôi khi mẫu mô được khảo sát theo nhiều cách khác nhau. Ví dụ, nó có thể được thử nghiệm với thuốc thử hóa học để giúp xác định các hóa chất bất thường trong mẫu mô. Đôi khi các xét nghiệm được thực hiện trên mẫu mô để tìm vi khuẩn hoặc các mầm bệnh khác. (Chi tiết thông tin: https://yhoccongdong.com/thongtin/sinh-thiet-biopsy/ ) Mối liên hệ của bệnh mèo cào với mèo?Các nghiên cứu đã được thực hiện để nghiên cứu mối liên quan giữa Bartonella henselae và mèo. Các nghiên cứu ban đầu đã chứng minh tỷ lệ cao của mèo cưng (25 đến 30%) ở Hoa Kỳ có kháng thể với vi khuẩn này trong máu cho thấy rằng chúng đã bị nhiễm vi khuẩn này trước đây hoặc hiện đang bị nhiễm vi khuẩn. Điều này đã được chứng minh thêm rằng khí hậu ảnh hưởng đến số lượng mèo tiếp xúc với vi khuẩn lên tới 60% số mèo ở vùng khí hậu ấm áp và ẩm ướt có kháng thể. Sau đó người ta đã phát hiện ra rằng không chỉ các kháng thể phổ biến trong các mẫu máu từ mèo, mà các sinh vật cũng có thể được phân lập từ các mẫu máu của mèo. Ngày nay người ta biết rằng ở mèo, sinh vật thực sự lây nhiễm và sống bên trong các tế bào hồng cầu (và có thể là một số tế bào khác trong cơ thể), nhưng nó là một loại vi khuẩn thích nghi rất tốt, rất hiếm khi gây ra bất kỳ tác dụng đáng kể nào ở mèo bị nhiễm bệnh. Một nghiên cứu từ Anh đã xem xét các mẫu máu từ 360 con mèo khác nhau và chứng minh sự hiện diện của Bartonella henselaein chỉ hơn 9% trong số các mẫu. Một lần nữa, tỷ lệ lây nhiễm khác nhau giữa các quốc gia, nhưng không có gì lạ khi tìm thấy tới 20% những con mèo khỏe mạnh bị nhiễm vi khuẩn này. Lây truyền bệnh mèo cào giữa mèo với mèo[caption id="attachment_408" align="alignnone" width="634"] Lây bệnh mèo cào giữa mèo với mèo[/caption] Hiện tại, người ta cho rằng sinh vật chủ yếu lây truyền giữa mèo với mèo là qua “bọ chét”, hay còn gọi là “rận mèo”. Vì loài bọ chét hút máu mèo, chúng ăn vi khuẩn trong khi đang hút máu và sau đó có thể truyền bệnh sang mèo. Phân bọ chét ('bụi bẩn bọ chét') từ một con bọ chét đã ăn máu nhiễm bệnh cũng sẽ chứa Bartonella henselae và vi khuẩn này có thể tồn tại trong bụi bẩn/phân bọ chét trong hơn một tuần. Do đó, việc tiếp xúc giữa các con bọ chét được cho là một trong những phương thức lây truyền quan trọng, nhiều nhất mà vi khuẩn bệnh được lây truyền giữa mèo với mèo. Điều này giải thích tại sao việc nhiễm bệnh phổ biến hơn ở các khu vực địa lý và khí hậu nơi bọ chét phổ biến hơn và ở những con mèo được phép đi lại tự do ngoài trời. Bọ ve và động vật chân đốt cắn khác có thể là một nguồn lây truyền vi khuẩn tiềm năng (nhưng ít quan trọng hơn). Truyền bệnh mèo cào từ mèo sang người[caption id="attachment_409" align="alignnone" width="631"] Lây bệnh mèo cào giữa mèo với người[/caption] Phần lớn người bị bệnh CSD có tiền sử bị mèo cào (thường bị mèo lớn hoặc mèo nhỏ cào). Người ta cho rằng mèo có thể có vi khuẩn Bartonella henselae trên móng vuốt của chúng - rất có thể vi khuẩn này có trong bọ chét trên mèo và vi khuẩn này được mèo lây lan sang móng vuốt trong quá trình chải chuốt và liếm. Các vi khuẩn sau đó có thể bị truyền dưới da của con người khi bị mèo cào. Một số người không có tiền sử có vết xước hoặc vết cắn của mèo, và trong những trường hợp này, có thể là nếu vết thương trên da tiếp xúc với vi khuẩn (thông qua tiếp xúc gần gũi với mèo, hoặc phân bọ chét bị nhiễm bệnh trong môi trường) có thể bị nhiễm trùng, hoặc có thể một số người bị nhiễm bệnh do bị bọ chét có chứa vi khuẩn cắn. Mặc dù nhiễm Bartonella henselae rất phổ biến ở mèo tại nhiều nơi trên thế giới, CSD ở người vẫn là một căn bệnh hiếm gặp, và vì vậy rõ ràng sự lây lan sang người là không khả thi. Thực tế là rất hiếm khi gặp nhiều trường hợp mắc CSD trong cùng một gia đình, điều này cũng cho thấy sự khó khăn trong việc lây truyền bệnh ở người. Điều trị nhiễm khuẩn CSD - Bệnh mèo càoỞ mèoĐiều trị và loại trừ Bartonella henselae là một khó khăn đáng ngạc nhiên. Những con mèo bị nhiễm vi khuẩn thường bị nhiễm bệnh trong thời gian dài (trong một số trường hợp kéo dài tới vài năm) trước khi chúng thực sự hết bệnh. Mặc dù một số loại thuốc kháng sinh (ví dụ, doxycycline và enrofloxacin) có thể làm giảm số lượng vi khuẩn có trong máu, nhưng những phương pháp điều trị này không phải lúc nào cũng thành công trong việc loại bỏ hoàn toàn việc nhiễm bệnh. Hiện tại, loại kháng sinh tốt nhất và thời gian điều trị thích hợp nhất để cố gắng loại bỏ B henselaeinfection từ mèo vẫn chưa được sáng chế. Tuy nhiên, vì trong phần lớn các trường hợp nhiễm khuẩn không gây ra bệnh lâm sàng ở mèo, có lẽ có rất ít hoặc không có lý do để cố gắng điều trị cho những con mèo khỏe mạnh là mèo bị nhiễm bệnh. Nếu nghi ngờ nhiễm khuẩn Bartonella gây bệnh lâm sàng ở mèo, điều trị bằng thuốc kháng sinh được biết là có một số khả năng chống lại vi khuẩn gây bệnh (ví dụ: doxycycline, hoặc fluoroquinolones hoặc azithromycin) sẽ phù hợp. **Doxycycline là một loại kháng sinh được sử dụng để điều trị một số loại bệnh do nhiễm khuẩn hoặc do động vật nguyên sinh gây ra. Chi tiết thông tin: https://vi.wikipedia.org/wiki/Doxycycline **Enrofloxacin là một loại thuốc kháng sinh diệt khuẩn, có hoạt phổ kháng khuẩn rộng với vi khuẩn Grma âm và Gram dương. Thuốc có dạng bột, kết tinh màu trắng, ít tan trong nước, nhưng tan tốt trong dung môi hữu cơ Enrofloxacin được hấp thu tốt qua đường tiêu hóa của hầu hết động vật. Sau khi uống, Enrofloxacin phân bố chủ yếu ở gan, thận và phổi và thấp nhất là ở não. Trong thú y, Enrofloxacin được chỉ định chữa các bệnh nhiễm khuẩn đơn, nhiễm khuẩn kép và Mycoplasma. Enrofloxacin được dùng phổ biến điều trị chữa các bệnh nhiễm khuẩn đường hô hấp, đường tiêu hóa hoặc nhiễm khuẩn kết hợp đường hô hấp và đường tiêu hóa ở vật nuôi. Chi tiết thông tin: https://vi.wikipedia.org/wiki/Enrofloxacin Ở ngườiĐiều trị ở người bị CSD cũng khó khăn. Kết quả của các loại kháng sinh khác nhau cũng khá khác nhau, và không có liệu pháp nào tạo ra phản ứng nhanh chóng. Tuy nhiên vì bệnh thường tương đối lành tính và tự giới hạn nên đây không được coi là một vấn đề lớn. Nhìn chung, các dạng bệnh nghiêm trọng hơn có khả năng đáp ứng tốt hơn nhiều với liệu pháp kháng sinh. Cách ngăn chặn bệnh mèo cào - CSDMặc dù B henselaeinfection thường phổ biến ở mèo, nhưng việc truyền sang người thì lại không phổ biến. Bằng chứng hiện tại cho thấy bọ chét có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc lây truyền trong phần lớn các trường hợp của bệnh mèo cào (nếu không có bọ chét bị nhiễm bệnh, sinh vật rất khó có thể có mặt trong miệng hoặc trên móng vuốt của mèo). Do đó, chìa khóa để giúp ngăn ngừa nhiễm khuẩn ở người là kiểm soát bọ chét trên mèo và trong môi trường. [caption id="attachment_406" align="alignnone" width="621"] Bọ chét (rận) trên mèo[/caption] Việc kiểm soát tốt bọ chét thường yêu cầu sử dụng hai hoặc nhiều sản phẩm - một loại thuốc để diệt bọ chét trưởng thành trên mèo và một sản phẩm để ngăn chặn sự phát triển của các dạng bọ chét sống trong môi trường. Có nhiều sản phẩm hiệu quả cao, an toàn và dễ sử dụng giúp kiểm soát bọ chét tốt rất thiết thực hiện nay và đây sẽ là cách hiệu quả nhất để ngăn ngừa CSD xảy ra. Các sản phẩm hiệu quả nhất để kiểm soát bọ chét và lời khuyên tốt nhất về kiểm soát bọ chét các bạn có thể được lấy từ các bác sĩ thú y. Kiểm soát bọ chét tốt quanh năm là cách hiệu quả và tốt nhất để kiểm soát nguy cơ mắc bệnh ở người. Cung cấp bởi: Mon’s Pet.Com Bài viết này được trích dịch từ nguồn: http://www.thecatgroup.org.uk/policy_statements/catscratch.html (Tổ chức phúc lợi mèo uy tín tại Anh) Tham khảo bài nguyên mẫu tại đây : Via https://monspet.com/benh-meo-cao/ Tất tần tật về các loại bệnh có thể tiêm phòng cho mèo, thời gian tiêm phòng cho mèo!!! Như các bạn cũng đã biết, với điều kiện môi trường và khí hậu tại Việt Nam hiện đang ẩn chứa nhiều vi khuẩn gây hại cho sức khỏe của con người và cả động vật. Việc xử lý rác thải, xác động vật… còn nhiều bất cập, vi khuẩn dễ dàng lây lan qua những vật chủ trung gian như chuột và gián. Đặc biệt tại các khu chợ, những bãi rác… nơi tập trung nhiều chuột, gián mang nhiều mầm bệnh vi khuẩn, virus gây hại… Với bản tính hay đi lang thang khám phá, thích săn mồi, vờn mồi của mèo, thì chúng rất dễ dàng bị nhiễm các loại bệnh truyền nhiễm do virus gây ra. Điều này vô tình mang lại rất nhiều loại các bệnh khó chữa cho mèo. Từ đó khiến cho việc tiêm phòng vắc-xin cho mèo trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Bài viết gốc: https://monspet.com/tiem-phong-cho-meo/ Sau đây là 1 bài viết chi tiết về vấn đề tiêm phòng cho mèo được cung cấp bởi thecatgroup.org.uk (Tổ chức phúc lợi mèo hàng đầu ở Anh) về vấn đề này. Các bạn hãy theo dõi nhé. Những bệnh có thể được tiêm phòng cho mèoMột số vắc-xin hiện đang được sử dụng ở Anh. Sau đây là một mô tả ngắn gọn về các bệnh mà vắc-xin hiện đang có sẵn. Cần lưu ý rằng vắc-xin cho các bệnh khác có sẵn ở một số quốc gia, nhưng hiện không có ở Anh. [caption id="attachment_379" align="alignnone" width="578"] Các loại vắc xin có thể tiêm phòng cho mèo[/caption] 1. Feline infectious enteritis - Viêm ruột truyền nhiễm (FIE, panleukopenia, parvovirus ở mèo)Viêm ruột truyền nhiễm là một bệnh gây ra bởi nhiễm parvovirus của mèo. Virus này có thể là nguyên nhân gây ra một dạng viêm dạ dày ruột nặng và thường gây tử vong. Mèo bị ảnh hưởng thường có dấu hiệu nôn mửa và tiêu chảy nghiêm trọng, nhưng căn bệnh này có thể nghiêm trọng đến mức gây ra cái chết đột ngột mà KHÔNG CÓ BẤT KÌ DẤU HIỆU NÀO KHÁC. Ngoài viêm ruột, virus cũng có thể gây ra bệnh thần kinh (tổn thương não) ở mèo con bị nhiễm bệnh trước hoặc ngay sau khi sinh. Virus cũng ảnh hưởng đến tủy xương và mô bạch huyết ức chế sản xuất tế bào bạch cầu. Ở những con mèo sống sót sau khi bị bệnh, sự phục hồi có thể được kéo dài. Virus rất kháng thuốc và có thể tồn tại trong thời gian dài trong môi trường. Tiêm phòng cho mèo vắc xin chống lại bệnh viêm ruột truyền nhiễm đã cực kỳ thành công. Mặc dù virus parvovirus ở mèo là một loại virus phổ biến, nhưng việc tiêm vắc-xin sẽ có độ bảo vệ cao sẽ chống lại sự truyền nhiễm và các bệnh sau này. 2. Feline herpesvirus (FHV-1) và feline calicivirus (FCV) – Cúm mèoHai loại virus - FHV-1 và FCV - chịu trách nhiệm cho phần lớn các trường hợp mắc bệnh cúm mèo hoặc bệnh đường hô hấp trên cấp tính. Những vi-rút này rất phổ biến và sự truyền nhiễm dẫn đến một loạt các dấu hiệu bao gồm hắt hơi, chảy nước mũi, viêm kết mạc, chảy nước mắt, loét miệng, sưng yết hầu (viêm họng), ho và hiếm khi dẫn đến viêm phổi và nhiễm trùng da. Bệnh sau nhiễm trùng thay đổi từ nhẹ đến rất nghiêm trọng, và đôi khi gây tử vong. Quá trình phục hồi có thể mất từ vài ngày đến vài tuần và bệnh nặng có thể dẫn đến tổn thương vĩnh viễn cho mũi hoặc mắt. Sau khi bị nhiễm bệnh, nhiều con mèo vẫn mang mầm bệnh này (mặc dù chúng không còn có dấu hiệu bệnh), do đó nó đóng vai trò là nguồn lây nhiễm cho những con khác. Các virus không tồn tại lâu trong môi trường nên sự truyền nhiễm thường có được thông qua tiếp xúc gần gũi giữa các con mèo. Tiêm phòng vắc-xin cho mèo chống lại FCV và FHV-1 có vai trò chính trong việc bảo vệ mèo khỏi bệnh hoặc giảm mức độ nghiêm trọng bệnh ở mèo. Tuy nhiên, tiêm vắc-xin không hoàn toàn ngăn ngừa sự truyền nhiễm của vi-rút này (một phần vì có nhiều chủng FCV khác nhau) và mèo đã được tiêm phòng cũng có thể trở thành vật chủ mang virus và truyền chúng cho các con mèo khác. 3. Chlamydophilosis - viêm kết mạc ở mèo (Chlamydophila felis, nhiễm chlamydophila ở mèo)Chlamydophila felis trước đây được gọi là Chlamydia psittaci. Đây là một loại vi khuẩn chuyên biệt chủ yếu gây ra viêm kết mạc ở mèo. Vi khuẩn này rất dễ vỡ và không thể tồn tại trong môi trường, do đó lây truyền qua tiếp xúc trực tiếp giữa mèo với mèo. Sự truyền nhiễm diễn ra phổ biến nhất ở các con mèo sống chung trong một nhà. Nhiễm trùng dẫn đến viêm kết mạc từ nhẹ đến nặng và chảy mủ mắt. Hắt hơi nhẹ và chảy nước mũi cũng có thể được nhìn thấy. Tiêm vắc-xin cho mèo chống chlamydophila giúp chống lại bệnh tật hoặc bệnh nặng nhưng như với vắc-xin FCV hoặc FHV-1, vắc-xin chlamydophila không ngăn ngừa sự truyền nhiễm với các con mèo khác và do đó bệnh nhẹ có thể xảy ra ở mèo đã được tiêm phòng. 4. Virus gây bệnh bạch cầu ở mèo (FeLV - Feline leukemia virus)Nhiễm virus FeLV thường dẫn đến nhiễm trùng kéo dài, suốt đời (còn được gọi là Viraemia – một thuật ngữ mô tả sự hiện diện của virus trong máu). Những con mèo bị nhiễm virus thường phát triển thành bệnh gây tử vong. Hầu hết sẽ chết hoặc bị “an tử - cái chết nhẹ nhàng” trong vòng ba năm sau khi được chẩn đoán là nhiễm bệnh. Nhiễm FeLV “dai dẳng” gây bệnh thông qua nhiều phương tiện khác nhau, nhưng hầu hết mèo chết do ức chế miễn dịch do nhiễm bệnh, thiếu máu cấp tiến hoặc do sự phát triển của khối u (ung thư hạch) hoặc bệnh bạch cầu. FeLV là một loại virus rất dễ vỡ và không thể tồn tại bên ngoài con mèo lâu. Do đó, việc truyền virut là do tiếp xúc trực tiếp giữa mèo với mèo và chủ yếu qua trao đổi nước bọt. Việc truyền bệnh là không hiệu quả, và người ta cho rằng sự tiếp xúc gần gũi kéo dài giữa những con mèo thường sẽ để điều này xảy ra. Nhiễm FeLV đã được kiểm soát bằng cách kiểm tra virus (sử dụng xét nghiệm máu) hoặc cách ly mèo bị nhiễm bệnh. Trong những năm gần đây, vắc-xin FeLV đã được giới thiệu nhằm bảo vệ, chống lại sự nhiễm bệnh và do đó có thể được sử dụng để bảo vệ mèo có nguy cơ bị nhiễm bệnh. Tuy nhiên, loại tiêm phòng cho mèo này có thể không bảo vệ tất cả các con mèo khỏi lại virus này. 5. Nhiễm khuẩn Bordetellosis ở mèoMèo có thể bị nhiễm vi khuẩn Bordetella bronchiseptica. Điều này có lẽ quen thuộc nhất với những người nuôi thú cưng vì đây là một trong những nguyên nhân chính gây ra ‘kennel cough – bệnh ho cũi chó' ở các loài chó. Ở mèo, nhiễm bordetella thường gây ra các dấu hiệu nhiễm trùng “đường hô hấp trên – từ mũi tới khí quản” (hắt hơi và chảy nước mũi), mặc dù vi khuẩn này đã được phân ra từ một số trường hợp viêm phổi, đặc biệt là ở mèo con. Nhiễm trùng là phổ biến hơn trong các hộ gia đình có nhiều mèo và vi khuẩn có thể lây lan giữa chó và mèo. Mặc dù các nghiên cứu khác nhau đã đề xuất việc tiếp xúc khá rộng rãi với bordetella ở mèo, nhưng nó thường không được coi là một nguyên nhân phổ biến của bệnh. Nhiễm trùng thường tự giới hạn và ngoài ra sẽ đáp ứng tốt với liệu pháp kháng sinh thích hợp. Một loại vắc-xin tiêm/nhỏ mũi hiệu quả có sẵn cho mèo, và có thể được sử dụng nếu có tình huống phát sinh trong trường hợp được coi là quan trọng để bảo vệ mèo khỏi bị nhiễm trùng. 6. Bệnh dạiBệnh dại được gây ra bởi một loại virus, tấn công hệ thống thần kinh gây ra một căn bệnh có thể gây tử vong. Virus có thể lây nhiễm gần như tất cả các động vật máu nóng nhưng thường thấy nhất ở chó, cáo, dơi, mèo và khỉ. Động vật bị nhiễm bệnh có thể truyền bệnh cho người qua vết cắn, vì virus được bài tiết qua nước bọt. Bệnh dại phổ biến ở nhiều quốc gia, nhưng ở Anh không có bệnh dại và việc kiểm dịch đã được sử dụng cho động vật mỗi khi vào Anh để đảm bảo rằng bệnh dại không vô tình xâm nhập vào nước này thông qua việc vận chuyển thú cưng. Lưu ý từ Monspet: Tuy nhiên việc tiêm phòng cho mèo vắc-xin bệnh dại là tối quan trọng ở Việt Nam, bởi tính chất môi trường khác Anh Quốc. Thời gian tiêm phòng cho mèo con?[caption id="attachment_381" align="alignnone" width="563"] Thời gian tiêm phòng cho mèo con[/caption] Tất cả các loại vắc-xin hiện được cấp phép sử dụng ở Anh đều được tiêm bằng: đường tiêm dưới da hoặc tiêm bắp - ngoại trừ vắc-xin bordetella được tiêm dưới dạng thuốc nhỏ mũi (và chỉ cần một liều duy nhất). Mèo con thường yêu cầu hai loại vắc-xin được tiêm cách nhau 3 đến 4 tuần để kích thích phản ứng miễn dịch tốt nhất và việc tiêm phòng thường bắt đầu vào khoảng 9 tuần tuổi. Sau kỳ tiêm vắc-xin ban đầu, nên tiêm vắc-xin tăng cường (tiêm một lần) theo chu kỳ đều đặn để duy trì mức độ bảo vệ tốt. Tiêm phòng cho mèo con hai loại vắc-xin khuyến nghị để đảm bảo đáp ứng miễn dịch tốt và khắc phục các vấn đề về kháng thể từ mèo mẹ. Mèo con nhận được kháng thể từ sữa non (sữa của mèo mẹ tiết ra ngay sau khi sinh). Những kháng thể này giúp bảo vệ mèo con chống lại nhiễm trùng cho đến khi hệ thống miễn dịch của chúng trưởng thành hơn, và chúng thường kéo dài khoảng sáu đến mười tuần. Mức độ cao của các kháng thể từ mèo mẹ này sẽ can thiệp vào khả năng của vắc-xin để kích thích phản ứng miễn dịch thích hợp từ mèo con. Tiêm phòng thêm 1 loại vắc-xin tăng cường được đưa vào một năm sau đó có thể tăng cường đáp ứng vắc-xin ban đầu, đặc biệt là khi tiêm chủng có thể ít hơn tối ưu do kháng thể từ mèo mẹ. Nên tiêm phòng cho tất cả các con mèo?[caption id="attachment_380" align="alignnone" width="566"] Nên tiêm cho tất cả các con[/caption] Cần thiết phải tiêm vắc-xin cho tất cả các bé mèo để chống lại các loại bệnh mà vắc-xin đã được thử nghiệm thành công. Phong cách sống và môi trường sống ở một số con mèo được ở cách ly có thể tránh được nguy cơ tiếp xúc với một số bệnh. Ví dụ, một con mèo được nuôi, nhốt trong nhà hoặc trong nhà chỉ có duy nhất một con mèo sẽ không có nguy cơ phơi nhiễm với Chlamydophila Felis hoặc FeLV, vì những vi khuẩn bệnh này thường yêu cầu phải tiếp xúc trực tiếp giữa mèo với mèo để lây truyền. Vì tiêm ngừa không thể được coi là một phương pháp hoàn toàn vô hại, do đó, có thể không phải lúc nào cũng thích hợp để sử dụng một số vắc-xin. Hiệp hội các nhà chuyên môn về mèo ở Mỹ gần đây đã đề nghị xem xét vắc-xin mèo là ‘core' or ‘non-core' – “chính” và “phụ”. “Core vaccines – Vắc-xin chính” được khuyến nghị cho tất cả các loài mèo vì bệnh mà các loại vắc xin đang bảo vệ, chống lại là cực kỳ nghiêm trọng và / hoặc đặc biệt phổ biến, hoặc căn bệnh này là mối đe dọa đối với con người. “Non-core vaccinces – Vắc-xin phụ” chỉ được khuyến nghị cho những con mèo có lối sống hoặc hoàn cảnh sống khiến chúng có nguy cơ mắc bệnh này. Viêm ruột truyền nhiễm, herpesvirus-1 và calicillin nên được coi là vắc-xin thiết yếu/chính ở Anh và The Cat Group - tổ chức phúc lợi mèo ở Anh khuyến cáo nên tiêm vắc-xin cho tất cả các con mèo để chống lại các virus này. Parvovirus – FIE gây viêm ruột truyền nhiễm là một loại virus rất kháng thuốc (do đó việc truyền virus gián tiếp là phổ biến) và bệnh tiếp theo có thể gây tử vong. Cả FCV và FHV-1 đều là những virus rất phổ biến và mặc dù có lẽ chủ yếu lây truyền qua tiếp xúc trực tiếp hoặc gần gũi, những virus này có thể tồn tại trong môi trường và do đó có thể lây truyền gián tiếp. Vì những lý do này, The Cat Group khuyên nên sử dụng thường xuyên các loại vắc-xin này. Việc sử dụng các loại vắc-xin khác không nhất thiết phải được chứng minh trong mọi trường hợp và The Cat Group khuyến nghị việc sử dụng các loại vắc-xin này được xác định theo từng trường hợp cụ thể theo nhu cầu cá nhân. Bao lâu thì nên tiêm phòng cho mèo vắc-xin tăng cường?[caption id="attachment_378" align="alignnone" width="566"] Bao lâu thì nên tiêm phòng tăng cường[/caption] Miễn dịch sau khi tiêm phòng cho mèo vắc-xin ban đầu có thể không kéo dài suốt đời, và nên tiêm vắc-xin tăng cường để duy trì bảo vệ tốt cho vắc-xin đã tiêm. Đối với hầu hết các loại vắc-xin, các nhà sản xuất khuyến cáo nên tiêm tăng cường hàng năm để duy trì phản ứng miễn dịch. Khuyến cáo này đã được áp dụng vì nhiều lý do bao gồm mong muốn đảm bảo rằng thú cưng được bảo vệ đúng cách và khỏi bệnh. Tuy nhiên điều này có thể thay đổi, phụ thuộc vào từng con mèo, từng loại bệnh và từng loại vắc-xin khác nhau về khả năng miễn dịch do vắc-xin tạo ra sẽ kéo dài trong bao lâu. Ngoài ra, các nơi nhận nuôi giữ chó mèo khi chủ đi vắng thường yêu cầu giấy chứng nhận tiêm chủng 'đã cập nhật gần đây' trước khi chấp nhận giữ mèo (nghĩa là bằng chứng tiêm chủng trong vòng 12 tháng trước đó). The Cat Group – tổ chức phúc lợi mèo ở Anh nhận ra rằng có sự khác biệt thực sự về quan điểm giữa các bác sĩ lâm sàng và các nhà khoa học hiện nay về tần suất tiêm vắc-xin tăng cường cần thiết cho mèo trưởng thành. Hơn nữa, hiện tại không có đủ dữ liệu để xác định khoảng thời gian tăng cường tối ưu ở mèo trưởng thành. The Cat Group khuyến khích sự đồng ý của chủ nuôi về việc tiêm phòng cho mèo của họ trong đó bao gồm cả rủi ro và lợi ích của việc tiêm phòng cũng như nhu cầu tiêm chủng được thảo luận với chủ nuôi và tư vấn được cung cấp trên cơ sở dữ liệu khách quan tốt nhất. The Cat Group cũng hỗ trợ và khuyến khích các nghiên cứu tiếp theo để xác định thời gian miễn dịch tối đa ở mèo đã được tiêm phòng để cung cấp bằng chứng bổ sung cho các khuyến nghị về khoảng cách tăng cường vắc-xin trong tương lai. Có ý kiến cho rằng xét nghiệm huyết thanh học (tìm kiếm số lượng kháng thể có trong mẫu máu) có thể được sử dụng thay vì tiêm vắc-xin tăng cường thông thường để đánh giá nhu cầu tiêm chủng. Giả định ở đây là vắc-xin tăng cường sẽ không cần thiết trừ khi nồng độ kháng thể giảm xuống dưới mức tới hạn được coi là bảo vệ. Tuy nhiên, ngoại trừ parvovirus (viêm ruột truyền nhiễm ở mèo) và bệnh dại, không có mối tương quan tốt giữa nồng độ kháng thể trong máu và sự bảo vệ chống lại bệnh, và các xét nghiệm về nồng độ kháng thể không được chuẩn hóa giữa các phòng thí nghiệm. Vì những lý do này, The Cat Group kêu gọi thận trọng trong việc sử dụng và giải thích xét nghiệm huyết thanh ở mèo và không tin rằng có đủ dữ liệu để khuyến nghị điều này thay cho việc tiêm phòng cho mèo LỜI KẾTQua bài viết này cũng phần nào giúp bạn hiểu rõ về các loại bệnh có thể tiêm phòng vắc-xin cho mèo, thời gian tiêm phòng, cùng với đó là tầm quan trọng của việc tiêm phòng đặc biệt là tại môi trường sống tại Việt Nam. Chính vì vậy, hãy nhanh chóng đưa chú mèo của mình đi đến bác sĩ thú y gần nhất để được tư vấn tiêm phòng cho mèo phù hợp nhé. Nguồn: Monspet.com Bài viết này được trích dịch tại nguồn: http://www.thecatgroup.org.uk/policy_statements/vacc.html Xem thêm: https://monspetweb.blogspot.com/ Đọc nguyên bài viết tại : Via https://monspet.com/tiem-phong-cho-meo/ Hiện nay nhiều người chủ nuôi mèo thường rất băn khoăn khi quyết định triệt sản mèo đực hoặc mèo cái. Nhiều suy nghĩ thầm xuất hiện trong đầu như: Nó có ảnh hưởng đến sức khỏe không? Tự nhiên không bệnh, không tật mà lại phải đi phẫu thuật. Không triệt sản chắc cũng không sao… Bài viết gốc: https://monspet.com/loi-ich-triet-san-meo/ Tuy nhiên những tác hại khi không triệt sản chú mèo của mình lại rất to lớn, những chú mèo đực, cái thường xuyên bỏ đi và trở về với nhiều vết thương, chứa nhiều nguy cơ nhiễm bệnh, nhiễm ký sinh trùng hoặc thậm chí là bị bắt mất. Hiện nay luật pháp Việt Nam vẫn chưa có luật về phúc lợi động vật nuôi nên khi các bé mèo dời khỏi các căn nhà an toàn của mình thì chúng phải đối mặt với nhiều nguy cơ tiềm ẩn khác nhau… vì vậy việc triệt sản mèo trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Để giúp các bạn hiểu rõ những lý do cũng như lợi ích của việc triệt sản mèo cái, mèo đực. Mon’s Pet sẽ trích dịch 1 bài viết từ 1 nguồn rất uy tín để nói về vấn đề này. (Nguồn: icatcare.org – Tổ chức phúc lợi, cổng thông tin thú cưng lâu đời nhất tại Anh - đã thành lập được 60 năm) Từ khoảng 6 tháng tuổi, mèo con bắt đầu động dục và do đó mèo sẽ có khả năng sinh sản. Hầu hết mọi người đều không có nhiều thời gian chăm sóc cho nhiều thú cưng trong nhà cùng một lúc và họ cũng không muốn những bé mèo con sinh ra sẽ không có người nhận nuôi. Triệt sản mèo - thiến ở con đực (cắt bỏ tinh hoàn) và triệt sản con cái (cắt bỏ buồng trứng và tử cung) - không chỉ ngăn ngừa mang thai ngoài ý muốn, mà còn hạn chế các hành vi không mong muốn liên quan đến động dục của mèo và giảm nguy cơ một số bệnh. Lý do triệt sản mèo cái[caption id="attachment_369" align="alignnone" width="569"] triệt sản mèo cái[/caption]
Điều quan trọng là bạn phải triệt sản mèo cái trước khi mèo bắt đầu thời kỳ động dục và sinh con. Điều này xảy ra rất nhanh tùy thuộc vào giống mèo, thời gian động dục và sự phát triển của mỗi con mèo. Thời gian động dục đầu tiên của mèo cái thường diễn ra khi mèo đủ 6 tháng tuổi nhưng điều này cũng có thể xảy ra sớm hơn. Mỗi con mèo cái có thể sinh 3 ba lứa mèo con trong 1 năm.
Mèo cái sẽ thường xuyên “kêu” bạn tình (vào mùa giao phối kế tiếp và sẵn sàng giao phối với bất kì mèo đực nào), khoảng ba tuần trong thời gian hoạt động tình dục trong năm nếu chúng không mang thai. Mèo cái chưa triệt sản sẽ thu hút các con mèo đực chưa được thiến cùng với nhiều vấn đề phát sinh như tranh dành bạn tình, tiếng ồn khi mèo “gào” bạn tình.
Mèo con khi được sinh ra trong trường hợp không mong muốn có thể không được chăm sóc và có khả năng bị các bệnh truyền nhiễm khác nhau như: cúm mèo hoặc tệ hơn. Và sẽ không có đủ nhà mới hoặc người chăm sóc cho chúng, khiến các bé mèo sẽ thành mèo hoang.
Những con mèo cái không được triệt sản có nhiều khả năng bị pyometra (nhiễm trùng tử cung) sau này trong cuộc sống với các khối u vú. Mèo cái mắc bệnh truyền nhiễm có thể truyền những bệnh này sang cho mèo con của chúng. Tuy nhiên, việc mang thai và sinh nở cũng không phải không có rủi ro.
Mèo cái có con sẽ săn mồi tích cực hơn và nếu chúng không được cho ăn, chúng sẽ cần bắt thêm động vật hoang dã để nuôi mèo con. Có nhiều ý kiến cho rằng mèo cái nên được phép sinh một lứa mèo con để biết cảm giác làm mẹ. Tuy nhiên, điều này là hoàn toàn không cần thiết và không có lợi ích gì cho mèo. Do đó, tốt hơn là bạn nên triệt sản mèo cái trước khi chúng bước vào giai đoạn động dục. Chu kỳ hoạt động tình dục của mèo cái thường xảy ra cứ sau 2-3 tuần và khi một con mèo đang 'gọi' bạn tình, đây có thể là một việc rất ồn ào. Hiện nay có 1 số loại thuốc như “thuốc tránh thai” dành cho mèo nhằm ngăn chặn việc động dục của mèo, nhưng một số trong số các loại thuốc tránh thai này có nguy cơ tác dụng phụ đáng kể ở mèo và không được khuyến cáo sử dụng lâu dài. Nếu bạn không dự định cho chúng mang thai thì bạn nên triệt sản mèo cái để loại bỏ đi các hành vi về tình dục, việc sinh sản quá nhiều sẽ gây ảnh hưởng tới sức khỏe của mèo và nguy cơ mắc các bệnh liên quan đến đường sinh dục sau này trong cuộc sống. Các hoạt động liên quan đến việc sử dụng thuốc gây mê nói chung và phẫu thuật cắt bỏ buồng trứng và tử cung thông qua một vết mổ được thực hiện trên sườn hoặc bụng của con mèo. Lông ở vị trí vết mổ sẽ được cạo trước khi phẫu thuật và bác sĩ thú y sẽ yêu cầu bạn giữ lại thức ăn từ buổi tối trước khi gây mê. Thông thường mèo của bạn sẽ có thể trở về nhà trong cùng một ngày và mọi vết khâu trên da thường được loại bỏ sau 7 đến 10 ngày. Đừng lo lắng việc phẫu thuật triệt sản mèo cái sẽ ảnh hưởng xấu tới sức khỏe của mèo. Lưu ý từ Monspet: Các bạn cũng tuyệt đối không triệt sản mèo cái bằng cách tiêm thuốc. Chỉ triệt sản bằng 1 cách duy nhất là phẩu thuật loại bỏ buồng trứng của mèo. Tác hại của việc tiêm thuốc ngừa thai sẽ khiến mèo bị nhiễm trùng tử cung, làm cho bộ phận này phồng lên, chứa dịch và bể, mèo sẽ chết ngay lập tức. Nếu mèo đã tiêm triệt sản trước đó thì hãy mau chóng đến thú y gần nhất để tiến hành phẫu thuật triệt sản mèo cái hoàn toàn. [caption id="attachment_370" align="alignnone" width="562"] Viêm tử cung tích mủ (Nguồn hình: Facebook - Dịch vụ Thú Y TPHCM)[/caption] Lý do triệt sản mèo đực (Thiến mèo đực)[caption id="attachment_368" align="alignnone" width="561"] Thiến mèo đực[/caption]
Những con mèo đực không được triệt sản có khả năng đi lạc trên một khu vực rộng lớn, chúng sẽ đánh dấu lãnh thổ của chúng bằng cách xịt nước tiểu của mình lên nhiều khu vực khác nhau và sẵn sàng giao chiến để tranh dành mèo cái – điều này gây ra nhiều sự phiền phức về mùi và tiếng ồn.
Những con mèo đang trong giai đoạn tranh dành mèo cái sẽ có nhiều khả năng lây lan các bệnh như FIV (suy giảm miễn dịch ở mèo) và FeLV (bệnh bạch cầu) tới những con mèo khác. Chúng cũng có thể bị các trấn thương khi tranh dành, đánh nhau với các con mèo khác. Bên cạnh đó việc đi lang thang trên một khu vực rộng lớn sẽ khiến chúng có nguy cơ bị tai nạn giao thông cao hơn.
Những con mèo đực không được triệt sản sẽ có khuynh hướng bỏ nhà đi để tìm bạn tình, nếu ở gần chúng không có con mèo cái nào đang trong thời kì cần giao phối. Điều này sẽ dẫn đến nguy cơ mèo bị lạc hoặc bị bắt trộm. Bên cạnh đó, một con mèo đực có thể gây giống cho nhiều con mèo cái trong một khu vực, việc này sẽ gây ra bùng nổ về dân số mèo con. Việc triệt sản mèo đực sẽ góp phần kiểm soát sự phát triển quá mức về số lượng mèo, và giảm tình trạng mèo con bị bỏ rơi, không ai chăm sóc. Triệt sản mèo đực là hoạt động bao gồm việc loại bỏ cả hai tinh hoàn bằng cách gây mê thông qua một vết mổ nhỏ vào bìu dái của mèo. Như với cách triệt sản mèo cái, triệt sản mèo đực cũng được yêu cầu giữ lại thức ăn từ tối hôm trước để giảm thiểu các biến chứng gây mê tiềm ẩn và mèo thường có thể về nhà trong cùng một ngày. Thông thường các vết mổ thiến mèo đực sẽ rất nhỏ nên không cần phải khâu vết thương. Chăm sóc sau phẫu thuật[caption id="attachment_366" align="alignnone" width="567"] Chăm sóc hậu phẫu[/caption] Mèo thường phục hồi một cách nhanh chóng sau ca phẫu thuật triệt sản mèo. Chúng có thể hơi buồn ngủ, mệt mỏi trong một vài giờ, nhưng vào ngày hôm sau chúng thường hoạt động bình thường trở lại. Bạn nên cố gắng giữ cho mèo của bạn yên tĩnh trong một hoặc hai ngày để cho vết thương bên trong thời gian lành lại. Tuy nhiên, nếu mèo của bạn có các triệu chứng bất thưởng hoặc quá sức mệt mỏi, bạn nên liên hệ ngay với bác sĩ thú y. Ngoài ra, nếu mèo của bạn bắt đầu liếm hoặc gãi quá mức tại vết khâu trên da, hãy liên hệ với bác sĩ thú y của bạn để đeo cho mèo “loa/vòng chống liếm vết thương” nhằm ngăn chặn bất kỳ tổn thương nào cho vết mổ. Điều quan trọng cần nhớ là khi một con mèo đã được triệt sản, sẽ có xu hướng ăn nhiều hơn dẫn tới thừa cân. Do đó, bạn có thể cần phải điều chỉnh lượng thức ăn của mèo nếu mèo của bạn bắt đầu tăng cân quá nhiều. LỜI KẾTQua bài viết này, Mon’s Pet.com cũng giúp bạn phần nào hiểu được tầm quan trọng cũng như nguyên nhân nên triệt sản những chú mèo của mình. Nếu bạn chưa từng có kinh nghiệm triệt sản mèo trước đó, hãy mạnh dạng, nghiêm túc đến cơ sở thú y gần nhất để tìm hiểu và lấy thêm nhiều thông tin, từ đó hiểu hơn và nắm bắt được tình hình cũng như chi phí triệt sản. (Lưu ý: Tại nhiều địa phương Việt Nam cũng có nhiều nơi hỗ trợ triệt sản giá rẻ hoặc miễn phí cho các foster… hãy tìm kiếm và hỏi ngay các diễn đàn, nhóm facebook để có thông tin của các địa chỉ thú y uy tín gần bạn nhất nhé) Nguồn: Monspet.com Nguồn trích dịch: https://icatcare.org/advice/neutering-your-cat Xem thêm: https://monspetblog.wordpress.com/ https://monspetweb.blogspot.com/ Tham khảo bài nguyên mẫu tại đây : Via https://monspet.com/loi-ich-triet-san-meo/ Khi nói về loại ký sinh trùng Toxoplasma Gondii (còn gọi là T gondii) gây nên bệnh Toxoplasmosis truyền nhiễm có trên mèo. Nhưng khi tìm kiếm về Toxoplasma Gondii là gì? Bệnh Toxoplasmosis là gì? thường có rất ít thông tin uy tín cũng như những tài liệu chi tiết nói về loại bệnh này. Bài viết gốc: https://monspet.com/toxoplasmosis/ Chính vì vậy thông qua 1 kênh chính thống tư vấn chuyên nghiệp về các loại bệnh ở mèo tại Anh Quốc www.thecatgroup.org.uk/, Mon’s Pet đã tìm được và trích dịch 1 bài viết vô cùng chuyên sâu về loại bệnh này. Các bạn hãy cùng theo dõi để hiểu rõ tất tần tật những thắc mắc về bệnh Toxoplasmosis này nhé. Sơ lược về ToxoplasmosisToxoplasmosis là bệnh phổ biến nhất trong số các loại bệnh Zoonotic – bệnh truyền nhiễm từ động vật sang người hoặc từ người sang động vật mà mọi người có thể mắc phải khi tiếp xúc với mèo. Toxoplasmosis đã được đưa lên các tiêu đề của các bài báo chỉ ra rằng nhiễm trùng với tác nhân này có thể ảnh hưởng đến hành vi của con người và coi mèo là nguồn lây nhiễm chính. Bài viết này sẽ tìm hiểu các sự thật đã biết về lây truyền và bệnh tật do tác nhân này gây ra và trấn an các chủ nuôi mèo đang có chút sợ hãi từ mèo của họ! Bệnh Toxoplasmosis là gì?Toxoplasmosis là bệnh do nhiễm Toxoplasma gondii (còn gọi là T gondii), một loại “ký sinh trùng cầu trùng”. Ở những người có hệ thống miễn dịch hoạt động bình thường, bệnh toxoplasmosis có thể nhẹ và không bị phát hiện hoặc có thể gây ra các triệu chứng như sốt và viêm hạch bạch huyết và có thể bị nhầm lẫn với các bệnh khác như ‘cúm hoặc sốt tuyến (bệnh tăng bạch cầu đơn nhân do nhiễm trùng). [caption id="attachment_322" align="alignnone" width="1024"] Toxoplasmosis là gì.[/caption] Toxoplasmosis là nghiêm trọng nhất ở một số nhóm 'nguy cơ cao' những người có khả năng miễn dịch bị suy giảm. Nhóm này bao gồm:
Ở nhóm 'người có nguy cơ cao' này, nhiễm trùng có thể liên quan đến bệnh nặng bao gồm viêm não, phá thai, thai chết lưu, dị tật bẩm sinh (bao gồm chậm phát triển trí tuệ) và các vấn đề khác ảnh hưởng đến hệ thần kinh và mắt. Mặc dù nhiễm “T gondii” hiếm khi gây bệnh ở mèo, đôi khi có thể nhìn thấy các dấu hiệu bệnh, bao gồm:
Các dấu hiệu bệnh ít gặp hơn bao gồm:
Nhiễm trùng ở mèo mang thai có thể gây ra các dấu hiệu bệnh nặng ở con cái như chết thai, xảy thai, thai chết lưu và mèo con sinh ra thường sẽ chết non. Ký sinh trùng Toxoplasma gondii là gì?Toxoplasmosis được gây ra bởi nhiễm Toxoplasma gondii (còn gọi là T gondii), một loại ký sinh trùng có mặt trên khắp thế giới và có thể ảnh hưởng đến hầu hết các động vật có vú bao gồm cả mèo và người. [caption id="attachment_321" align="alignnone" width="1000"] Toxoplasma gondii là gì[/caption] Nhiễm ký sinh trùng này là phổ biến mặc dù bệnh do Toxoplasma gondii, gây ra là rất hiếm. Nhìn chung, khoảng 50 phần trăm tất cả những con mèo được cho là đã bị nhiễm sinh vật này tại một số thời điểm trong cuộc sống của chúng, mặc dù tỷ lệ nhiễm bệnh thay đổi tùy theo lối sống của mèo. Vòng đời của “T gondii” khá phức tạp và liên quan đến hai loại vật chủ: chính và trung gian. Những con mèo hoang và mèo nhà, bao gồm cả mèo nhà, là vật chủ chính của Toxoplasma gondii, có nghĩa là sinh vật chỉ có thể tạo ra từ trứng khi lây nhiễm cho mèo. Mèo con có thể bị nhiễm trùng từ lúc còn trong bụng mẹ hoặc qua bú sữa mèo mẹ nhưng điều này không phổ biến. Hầu hết những con mèo bị nhiễm bệnh do ăn thịt có chứa tế bào u nang mô T Gondii (U nang là thuật ngữ để chỉ các khối u chứa đầy dịch hình thành trên da) - điều này có thể bao gồm thịt sống hoặc nấu chưa đủ chín (ví dụ: thịt bò, thịt cừu, thịt lợn) hoặc phổ biến hơn là các loài con mồi (ví dụ: chuột). Vài ngày sau khi một con mèo bị nhiễm bệnh lần đầu tiên, nó sẽ bắt đầu thải ra hàng triệu chiếc trứng ký sinh trùng trong phân của nó. Các trứng ký sinh trùng chỉ được thải ra trong một khoảng thời gian ngắn, thường là dưới 14 ngày, trước khi phản ứng miễn dịch của cơ thể ngừng hoạt động sản xuất trứng của ký sinh trùng hoàn toàn. Mặc dù những con mèo bị nhiễm bệnh có thể sẽ thải trứng một lần nữa trong tương lai, nhưng điều này rất hiếm và khi nó xảy ra, nó thường dẫn đến số lượng trứng nhỏ hơn nhiều. Ngay cả những con mèo thường xuyên tiếp xúc lại với Toxoplasma gondii cũng có thể hiếm khi thải ra một số lượng lớn trứng sau lần nhiễm đầu tiên (Tài liệu: Lappin 2001). Các nghiên cứu thực nghiệm đã chỉ ra rằng liệu pháp điều trị bằng thuốc để ức chế sâu hệ thống miễn dịch của mèo hiếm khi có tác dụng kích hoạt lại việc thải tế bào trứng ký sinh trùng (Tài liệu: Dubey & Lappin 1998). Các loài động vật khác (bao gồm cả con người) là vật chủ trung gian của Toxoplasma gondii. Những vật chủ này có thể bị nhiễm bệnh nhưng không tạo ra trứng. Các tế bào trứng truyền nhiễm trong phân mèo không lây nhiễm ngay lập tức sang các động vật khác và trước tiên phải trải qua một quá trình gọi là hình thành bào tử trong khoảng từ một đến năm ngày, tùy thuộc vào điều kiện môi trường. Sau khi hình thành bào tử, các tế bào trứng lây nhiễm cho mèo, người và các vật chủ trung gian khác và có thể tồn tại trong đất hoặc nước trong thời gian dài (lên đến 18 tháng) ngay cả trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt. Vật chủ trung gian bị nhiễm khi nuốt phải tế bào trứng, và việc nhiễm ký sinh trùng này dẫn đến sự hình thành các u nang mô (bradyzoites – 1 dạng khối u chứa dịch hình thành trên da) trong các mô khác nhau của cơ thể. U nang mô vẫn tồn tại trong vật chủ suốt đời và lây nhiễm cho mèo, người và vật chủ trung gian khác nếu ăn phải. Chó (và các động vật khác) cũng có thể lây nhiễm các tế bào trứng và lây lan chúng sang nơi khác nếu chúng ăn phải trứng ký sinh trùng và sau đó thải phân ở nơi đó. “T gondii” lây lan sang người như thế nào?[caption id="attachment_319" align="alignnone" width="1920"] loại bệnh này lây sang người như thế nào[/caption] Nhiễm trùng ở người phổ biến ở một số nước này nhưng lại ít phổ biến ở một số nước khác. Ví dụ, ở Anh, khoảng 20 đến 30 phần trăm người bị nhiễm bệnh tại một số thời điểm trong cuộc sống của họ, trong khi đó khoảng 80 phần trăm người Pháp và Đức bị nhiễm bệnh. Những người đã bị nhiễm “T gondii” phát triển các kháng thể đối với sinh vật này và những thứ này có thể được phát hiện khi xét nghiệm máu. Thai nhi của những phụ nữ chưa bị nhiễm bệnh trước khi mang thai rất dễ bị bệnh do “T gondii” gây ra nếu người mẹ bị nhiễm bệnh khi mang thai. Trong khoảng 20 đến 50 phần trăm những phụ nữ này, thai nhi sẽ bị nhiễm bệnh và có thể bị mất hoặc bị dị tật bẩm sinh. Ảnh hưởng của nhiễm trùng là nghiêm trọng nhất khi nhiễm trùng xảy ra giữa tháng hai và sáu của thai kỳ. Nếu một phụ nữ đã bị nhiễm “T gondii” trước khi mang thai (và do đó đã phát triển các kháng thể), không có nguy cơ nhiễm trùng có thể truyền sang thai nhi. Điều này chỉ có thể xảy ra nếu người phụ nữ mắc bệnh toxoplasmosis lần đầu tiên trong thai kỳ. Các nguồn lây nhiễm cho người là gì?Trong hầu hết các trường hợp, mọi người bị nhiễm qua một trong hai tuyến:
Các con đường lây nhiễm khác ít liên quan hơn nhưng bao gồm:
Tiếp xúc với mèo có làm tăng nguy cơ nhiễm bệnh?[caption id="attachment_320" align="alignnone" width="675"] tiếp xúc với mèo thì có tăng nguy cơ nhiễm bệnh Toxoplasmosis[/caption] Những nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng tiếp xúc với mèo không làm tăng nguy cơ nhiễm ký sinh trùng Toxoplasma gondii ở người. Dưới đây là chi tiết những khoản nghiên cứu đã chỉ ra điều đó:
Làm thế nào để giảm nguy cơ lây bệnh Toxoplasmosis từ mèo sang chủ nuôi?[caption id="attachment_318" align="alignnone" width="600"] cách giảm thiểu nguy cơ lây bệnh Toxoplasmosis của mèo sang chủ[/caption] Toxoplasmosis đặc biệt nghiêm trọng ở một số nhóm cá nhân có “nguy cơ cao” (xem lại ở phần trên 'Bệnh toxoplasmosis' là gì). Mặc dù nguy cơ truyền bệnh từ mèo sang chủ nuôi là rất thấp, nhưng điều này có thể giảm hơn nữa và / hoặc giảm thiểu hậu quả của nó bằng cách áp dụng các khuyến nghị sau: Những người trong nhóm 'nguy cơ cao' nhiễm bệnh không nên tiếp xúc với khay đựng phân của mèo. Nếu có thể, chỉ những người không mang thai và bị suy giảm miễn dịch (nghĩa là không phải những người mắc bệnh hoặc điều trị bằng thuốc ức chế hệ thống miễn dịch của họ) nên xử lý khay mèo theo tất cả các hướng dẫn dưới đây Cách xử lý khay đựng phân mèo
[caption id="attachment_317" align="alignnone" width="670"] cách dọn khay phân không nhiễm Toxoplasmosis[/caption]
Nguy cơ nhiễm Toxoplasmosis có thể được giảm thiểu bằng cách:
Làm thế nào có thể giảm nguy cơ lây truyền toxoplasma từ các nguồn khác (ngoài mèo)?Những biện pháp này rất cần thiết cho tất cả các nhóm người có 'nguy cơ cao' nhiễm bệnh và cũng là những biện pháp phòng ngừa vệ sinh thông thường:
Kết luậnNguy cơ mắc phải bệnh toxoplasmosis từ một con mèo là vô cùng nhỏ và hầu hết mọi người bị nhiễm bệnh thông qua các con đường khác (đa phần từ ăn thịt chưa nấu chín). Các biện pháp vệ sinh đơn giản hàng ngày có thể được thực hiện để giảm nguy cơ nhiễm bệnh (từ mèo và từ các nguồn khác) giúp an toàn khi nuôi và tận hưởng niềm vui với một bé mèo. Nguồn: Mon’s Pet .Com Xem thêm: Videos đề cập về bệnh toxoplasmosis: https://www.youtube.com/watch?v=rqno7K2zXi4&fbclid=IwAR2aejy3pQwa9PhXEh3AfarkBaDMCuFrts3m_CSTsh-cOyZOMThAQritJ6k Bài viết trích dịch từ: http://www.thecatgroup.org.uk/policy_statements/toxo.html (tổ chức phúc lợi mèo hàng đầu ở Anh) Coi bài nguyên văn tại : Via https://monspet.com/toxoplasmosis/ |
MonspetỞ đây có thú cưng và nhiều hơn thế nữa - Monspet tự hào là địa chỉ cung cấp tất cả các thông tin về động vật, thú cưng uy tín và chính xác nhất. Website: https://monspet.com/ Archives
July 2021
Categories |